Sự thật về Po Krung Garay (Po Klong Garai)

Written by Putra Podam
In category Nghiên cứu
May 21, 2025, 11:19 PM
Haji.Phd.Putra Podam (Văn Ngọc Sáng)
Facebook: Putra Podam
Email: [email protected]

 

 

I. Po Krung Garay (Po Klong Garai)

1.1. Tìm hiểu nguồn gốc vua Po Krung Garay

Theo sử liệu lịch sử Champa, sử liệu Việt Nam và các sử liệu người Tây phương để lại, Po Krung Garay (Po Klong Garai: Thủ lĩnh Rồng) là nhân vật có thật trong lịch sử Champa. Ngài Po Krung Garay là vị vua thứ tư trong triều đại thứ 11 (11th Dynasty - Vijaya) đóng đô ở thành Đồ Bàn (Vijaya) thuộc tiểu bang Degar-Vijaya (Vijaya) của Vương quốc Champa. Trong quá trình trị vị, với tài năng, đức độ và văn thao võ song toàn, ông không chỉ có công đánh giặc ngoại xâm, kiến thiết đất nước Champa trong lịch sử mà còn có công lớn cho công trình thủy lợi ở tiểu bang Degar-Vijaya và Panduranga.

Hậu duệ Ngài Po Krung Garay là R'cam Mal, theo cách gọi của tộc người Rhade và Jarai tại vùng Degar-Vijaya để gọi hoàng tử Harijit, con của hoàng hậu Gaurendraksmi, lên ngôi lấy vương hiệu là Jaya Simhavarman III, mà tài liệu Trung Quốc gọi là Pou Ti, tức Raja Kembayat (đức vua Chế Mân) vua Islam (Hồi giáo) trong quyển "Bidasari and The Djinn" của Ninot Aziz, là vị vua thứ 12 của triều đại thứ 11 vào thế kỷ 13, Chế Mân đã cho xây dựng đền Po Klong Garai tại Phan Rang (Panduranga) vào cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14.

Po Krung Garay (vị vua thứ 4) và vua Chế Mân (vị vua thứ 12) cùng triều đại thứ 11 (11th Dynasty - Vijaya) đóng đô ở thành Đồ Bàn (Vijaya) thuộc tiểu bang Degar-Vijaya. Từ cơ sở trên có thể thấy, Vua Chế Mân là hậu duệ của vị vua Po Krung Garay người anh hùng Champa thuộc tộc người Rhade - Jarai.

Theo Ts.Nguyễn Văn Huy, trong cuốn Tìm hiểu cộng đồng Chăm ở Việt Nam, Po Klong Garai là vị vua Jaya Indravarman IV (1167 - 1190), vua Champa tại Vijaya thuộc miền Bắc Champa.

Theo Ts.Ngô Văn Doanh, trong cuốn Tháp cổ Champa, vua Champa là Jaya Indravarman IV (trị vì 1167 - 1190) đánh chiếm Chân Lạp, bắt được nhiều tù binh đem về Champa, trong đó có một vị hoàng thân Khmer. Năm 1186, vị hoàng thân Khmer này được thả về Chân Lạp để kế nghiệp ngôi vua, là vua Jayavarman VII (vua Khmer).

Theo Ts.Po Dharma, trong cuốn Biên niên sử Champa (Sakkarai Dak Rai Patao), Po Klong Garai là Jaya Indravarman IV vua liên bang Champa nhưng chưa đủ cơ sở. Theo Po Dharma, tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao, thì Po Klong Garai là vị vua chưa biết gốc tích, có thể là vị vua huyền sử, một vị thần linh tự sinh ra (éngkat), sau mấy năm trì vị ở trần gian, Po Klong Garai trở về trời (nao mâng rup).

Một số nghiên cứu khác, ngài Po Klong Garai chính là Jaya Harivarman I (Chế Bì La Bút) trị vì từ (1147-1166), nhưng không cung cấp chứng cứ lịch sử.

Căn cứ một số nghiên cứu cho thấy, dân tộc Rhade (Radaya, Raday) cư trú lâu đời trên mảnh đất Cao nguyên Trung Phần tức Tây Nguyên ngày nay gồm 5 tỉnh: DakLak, Daknong, Gia Lai, Kontum, Lam Dong. Người Radaya (Raday), được phân thành hai nhánh sắc tộc lớn là: Rhade (Ede) và Jarai (Garai, Grai, Jrai).

Trong lịch sử, qua các lần Nam Tiến của Đại Việt vào đất Champa, những người Champa sống ở vùng đồng bằng ven biển thường chạy lánh nạn lên vùng bình nguyên Cheo Reo sống cộng cư với “Orang Raday hay Anak Raday” tức cộng cư với hai sắc tộc lớn là Rhade và Jarai.

Nhóm người vùng thung lũng Sông Ba (phần thượng lưu mà người Rhade gọi “Ea Pa”, người Jarai gọi “Ia Pa”, người Cham gọi “Aia Pa”, ... còn được gọi “Krong Pa”, phần hạ lưu gọi sông Đà Rằng) tự xưng là anak Garai (anak Grai: con của rồng) hay ana Garai (ana Grai: con Rồng), người Chăm gọi “ana Garai hay ina Garai” là con rồng. “Ea Garai, Ea Grai hay Ia Grai”: là nước Rồng, danh xưng này đã gắn với tộc danh của người Garai (Grai) từ lâu, sau thời Việt Nam Cộng Hòa đã gọi Jarai (Jrai) đến ngày nay.

Thủ lĩnh của vùng đất “Ea Garai hay Ia Grai” được gọi: Po Krung Garay (Po: chủ, ngài; Kurung hay krung: là dấu tích, nguyên thủy, thủ lĩnh; Garay, hay garai hay grai: con Rồng). Po Krung Garay còn được gọi là: Yang Krung Garay (Thần Rồng).

 

 Po Krung Garay, là Jaya Indravarman IV, vị vua trong danh sách thứ tư của triều đại thứ 11 (11th Dynasty - Vijaya) đóng đô ở thành Đồ Bàn (Vijaya) thuộc tiểu bang Degar - Vijaya.

Danh sách các vị vua thuộc triều đại thứ 11 như sau:

Rudravarman IV (?), 1145-1147

Jaya Harivarman I (Chế Bì La Bút), 1147-1166

Jaya Harivarman II (?), 1166 -1167

Jaya Indravarman IV (?), 1167 - 1190

Suryajayavarman (Khmer king in Vijaya), 1190 -1191

Jaya Indravarman V (?), 1191-1192

Suryavarman or vidyanandana (Khmer king in Vijaya, Panduranga), 1192-1203

Occupied by Khmer Empire, 1203-1220

Jaya Paramesvaravarman II (?),1220-1254

Jaya Indravarman VI (?), 1252-1257

Indravarman V (?), 1257-1285

Jaya Simhavarman III (Chế Mân), 1285 -1307

Jaya Simhavarman IV (Chế Chí), 1307-1312

Jaya Simhavarman V (Chế Năng), 1312 -1318

 

Vua Champa triều đại thứ 12 (12th Dynasty - Vijaya) đóng đô ở thành Đồ Bàn (Vijaya) thuộc tiểu bang Degar-Vijaya. Danh sách các vị vua Champa triều đại thứ 12 Vijaya như sau:

Jaya Ananda (Chế A Nan), 1318 -1342

Maha Sawa (Trà Hòa), 1342 -1360

Jaya varman (Chế Bồng Nga), 1360 -1390

 

Vua Champa triều đại thứ 13 (13th Dynasty-Vijaya) đóng đô ở thành Đồ Bàn (Vijaya) thuộc tiểu bang Degar-Vijaya. Danh sách các vị vua Champa triều đại thứ 13 Vijaya như sau:

Jaya Simhavarman VI (La Ngai), 1390 -1400

Indravarman VI (Ba Đích Lại), 1400 -1441

Virabhadravarman (?), 1441- 444/46?

 

Vua Champa triều đại thứ 14 (14th Dynasty - Vijaya) đóng đô ở thành Đồ Bàn (Vijaya) thuộc tiểu bang Degar-Vijaya. Triều đại cuối cùng ở Vijaya, danh sách các vị vua Champa triều đại thứ 14 như sau:

Maha Vijaya (Ma-kha Bí-cai), 1441-1446

Maha Kali (Ma-kha Quý-lai), 1446 -1449

Maha Kaya (Ma-kha Quý-do), 1449 -1458

Maha Saya (Ma-kha Trà-duyệt, Bàn-la Trà-duyệt), 1458-1460

Maha Sajan (Ma-kha Trà-toàn, Bàn-la Trà-toàn), 1460-1471

Maha Sajai, (Ma-kha Trà-toại, Bàn-la Trà-toại), 1471-1474

 

Hình 1. R'cam Mal (Raja Kembayat) là đức vua Chế Mân, trong quyển "Bidasari and The Djinn" của Ninot Aziz. Chế Mân, vị vua ảnh hưởng Hồi giáo (Islam) khi bang giao với thế giới Melayu, và kết hôn với công chúa Tapasi Majapahit (Indonesia).

 

1.2. Tháp Po Krung Garay ở Panduranga

Vua Chế Mân (1285-1307), vị vua thứ 12, triều đại thứ 11 của Vijaya (Đồ Bàn, Chà Bàn). Theo cách gọi của tộc người Rhade và Jarai tại vùng Degar -Vijaya là R'cam Mal (hoàng tử Harijit), con của hoàng hậu Gaurendraksmi, lên ngôi lấy vương hiệu là Jaya Simhavarman III, mà tài liệu Trung Quốc gọi là Pou Ti, tức Raja Kembayat (đức vua Chế Mân) vua Islam trong quyển "Bidasari and The Djinn" của Ninot Aziz. Khi bang giao với thế giới Melayu, Chế Mân kết hôn với công chúa Bhaskaradevi người Islam tại Java, Công chúa Tapasi người Islam Majapahit (Indonesia) và Công chúa Huyền Trân con gái út của Vua Trần Nhân Tông. Vua Chế Mân cũng là vị vua theo Islam (Hồi giáo) tương đối sớm ở Degar-Vijaya. Kế nhiệm từ vua cha là quốc vương Champa, Indravarman V. Chế Mân đã từng lãnh đạo chống quân xâm lăng Mông Cổ, mà nhà thương thuyền Âu Châu là Marco Polo, nhân dịp ghé thăm Champa vào năm 1288 có nhắc đến. 

Trong lịch sử Champa, Quốc vương Chế Mân (R'cam Mal) đã để lại cho hậu thế ba công trình kiến trúc là tháp Po Krung Garay (Thủ lĩnh Rồng) tại Phan Rang (Panduranga) và hai tháp khác tại tiểu bang Degar -Vijaya là tháp Yang Prong (thần lớn, thần vĩ đại) tại tỉnh Daklak và tháp Yang Mum (Mẫu thần) tại tỉnh Gialai vào cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14.

Đền (tháp) Po Krung Garay có ba ngôi tháp: tháp chính, tháp lửa và tháp cổng. Tháp chính là nơi tôn kính vị vua Po Krung Garay (Jaya Indravarman IV).

Hình 2. Đền (tháp) Po Krung Garai (Thủ lĩnh Rồng hay thần Rồng), trên đồi Trầu, phường Đô Vinh, Tp.Phan Rang. Tháp do vua Chế Mân (Jaya Simhavarman III) xây dựng vào cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14 để tôn kính vua Po Krung Garai (Jaya Indravarman IV).

 

 

Hình 3. Đền (tháp) Po Krung Garai (Thủ lĩnh Rồng hay thần Rồng), trên đồi Trầu, phường Đô Vinh, Tp.Phan Rang. Tháp do vua Chế Mân (Jaya Simhavarman III) xây dựng vào cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14 để tôn kính vua Po Krung Garai (Jaya Indravarman IV).

 

1.3. Tháp Yang Mum tại thị trấn Ayun Pa tỉnh Gialai

Yang Mum (Mẫu thần), là đền (tháp) Champa do quốc vương Chế Mân (R'cam Mal) xây dựng tại tiểu bang Degar-Vijaya vào cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14, theo Viện Viễn đông Bác cổ (EFEO), 1901.

Tháng 6-1902, H. Parmentier (học giả người Pháp) ghi nhận ngôi tháp được xây dựng trên nền đất đá ong, có một tấm bia và bức tượng thần Shiva cưỡi trên con bò thần Nandin, …

Theo nhà dân tộc học J. Dournes “Những nghiên cứu ở vùng Champa”: Tháp Yang Mum ở thượng nguồn sông Ba trên địa phận Gia Lai - Kontum, người Jarai gọi tháp này là: Ya H’mum (yă: bà; H’mum: Mẫu thần hay nữ thần năng lượng), xuất phát từ R’cam H’mum là tên của một bà tổ (mẫu tổ) của bộ lạc R’cam của người Jarai”, …tức bộ lạc mang họ “Chế” như vua Chế Mân, Chế Chí, Chế Năng, Chế Anan, Chế Bồng Nga, …Tháp Yang Mum (bimong Yă H’mum) được người dân trong vùng dùng để tôn thờ Mẫu thần R’cam H’mum.

Nhiều di tích tháp Champa còn tìm thấy nằm khá sâu về phía Tây, rải rác vùng Tây Nguyên và đặc biệt xuất hiện ở những phụ lưu đầu nguồn hay hai bên bờ sông Ba cho đến vùng hạ lưu.

Hình 4. Tháp Yang Mum (Mẫu thần hay Mẫu thần năng lượng), hiện trạng vẫn còn nguyên vẹn vào năm 1948 tại thị trấn Ayun Pa, tỉnh Gialai. Ảnh: Sưu tầm.

 

Hình 5. Tháp Yang Mum (Mẫu thần), sau khi sụp đổ trở thành phế tích. Ảnh: Sưu tầm.

 

1.4. Tháp Yang Prong tại thị trấn Ea Sup tỉnh Dak Lak

Đền (tháp) Yang Prong (thần lớn, thần vĩ đại), là tháp Champa nằm dưới những tán cổ thụ của rừng già Ea Sup, bên cạnh dòng sông Ea H’leo, thuộc xã Ea Rok, huyện Ea Sup, tỉnh Dak Lak. Tháp được phát hiện vào những năm 1904 -1911 bởi nhà dân tộc học người Pháp, Henri Maitre, và được mô tả trong cuốn Les jungles Moi (Rừng Mọi) xuất bản tại Paris năm 1912.

Năm 1990, một số nhà nghiên cứu cho rằng tháp Yang Prong có chân tường bằng đá ong, trên khung cửa đá xà ngang có dòng bia ký cổ Champa, mảnh đá sa thạch ở nóc bệ có bò thần Nandin, tháp được xây để thờ thần Shiva do vua R’cam Mal (Chế Mân - vua Jaya Simhavarman III) xây dựng vào cuối thế kỷ 13.

Sau khi Degar-Vijaya bị Đại Việt chiếm đóng vào năm 1471 (thế kỷ 15), đây cũng là giai đoạn mà Ấn giáo (Hinduism) tàn lụi ở Champa và cả vùng Đông Nam Á. Từ giai đoạn này tín ngưỡng Hinduism rất mờ nhạt ở Champa, vì Hinduism chỉ dành cho giới vương tôn và bậc Brahmin, do đó người dân bản địa không còn thờ thần Shivamà thay vào đó thờ thần bản địa. Cụ thể, Degar tách khỏi Champa vào năm 1471 (sau khi mất Vijaya). Degar tiếp tục độc lập mang tên nhà nước Nam Bàn (tiểu quốc Nam Bàn) hay (tiểu quốc Jarai) mà sử sách Việt Nam gọi là tiểu vương Thủy Xá (vua nước) tồn tại đến đời thứ 7 là vua R’Cam Bo (Recam Bo: 1897- 1955), và tiểu vương Hỏa Xá (Vua Lửa) tồn tại đến đời thứ 15 là vua Rahlan Hieo (Ralan Hiew: 1999 - 2015).

Người Jarai, Rhade sống quanh tháp Yang Prong cho rằng: H’bia (công chúa, nữ vương; tiếng Chăm: hoàng hậu) đến kỳ sinh nở mời bà đỡ đẻ đến. Lúc chuẩn bị đỡ đẻ, bà quay sang ngắm tiếng sáo diều trên bầu trời. Công chúa chuyển dạ, băng huyết nên chết cả mẹ lẫn con. Khi biết chuyện, người chồng H’bia nổi giận liền rút gươm chém bà đỡ. Ba người chết hóa đá. Dân trong vùng tôn thờ H’bia và cho rằng linh hồn của H’bia chính là Yang Prong.

Hình 6. Tháp Yang Prong, xã Ea Rok, huyện Ea Sup, tỉnh Daklak.

 

Hình 7. Tháp Yang Prong, xã Ea Rok, huyện Ea Sup, tỉnh Daklak.

 

1.5. Tiểu kết

Từ những Mục đã liệt kê ở trên khẳng định, Po Krung Garay (Thủ lĩnh Rồng hay thần Rồng) là vua Jaya Indravarman IV nằm trong danh sách thứ tư của triều đại thứ 11 (11th Dynasty - Vijaya) đóng đô ở thành Đồ Bàn (Vijaya) thuộc tiểu bang Degar-Vijaya.

Po Krung Garai (Po: chủ, ngài; Kurung hay krung: là dấu tích, nguyên thủy, thủ lĩnh; Garay, garai, grai: con Rồng). Tộc người Rhade và Jarai gọi Po Krung Garay là “Thủ lĩnh Rồng" hay "thần Rồng”.

Chế Mân (1285-1307), vị vua thứ 12 của Triều đại thứ 11 của Vijaya. Theo cách gọi của tộc người Rhade và Jarai tại vùng Degar -Vijaya là R'cam Mal (hoàng tử Harijit).

Po Krung Garay (vị vua thứ 4) và vua Chế Mân (vị vua thứ 12) cùng triều đại thứ 11 (11th Dynasty - Vijaya) đóng đô ở thành Đồ Bàn (Vijaya) thuộc tiểu bang Degar-Vijaya. Chế Mân, hậu duệ của vị vua Po Krung Garay là anh hùng Champa thuộc tộc người Rhade-Jarai.

Từ yếu tố là hậu duệ của Po Krung Garay, nên Quốc vương Chế Mân (R'cam Mal) đã cho xây ba công trình kiến trúc là tháp Po Krung Garay (Thủ lĩnh Rồng) tại Phan Rang (Panduranga) và hai tháp khác tại tiểu bang Degar-Vijaya là tháp Yang Prong (thần lớn, thần vĩ đại) tại tỉnh Dak Lak và tháp Yang Mum (Mẫu thần) tại tỉnh Gialai vào cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14.

Tháp Po Krung Garay là tên gọi tháp “Thủ lĩnh Rồng" hay "thần Rồng” không phải do dân tộc Cham tại Panduranga xây như nhiều người hiểu lầm. Tháp Po Krung Garay là tháp của Champa do vua Chế Mân (1285-1307), vị vua thứ 12 của Triều đại thứ 11 của Vijaya (Đồ Bàn, Chà Bàn) chủ trương xây dành để tôn kính vị vua Po Krung Garay (Jaya Indravarman IV) trị vị  (1167 - 1190) là vua Champa tại Vijaya thuộc miền Bắc Champa.

 

Sai lầm của Pgs.Ts.Po Dharma:

Pgs.Ts.Po Dharma cho rằng, thời kỳ đầu của Panduranga là thời kỳ huyền sử, Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử Cham tại Panduranga gọi là patao jiéng éng hay patao éngkat "vua tự sinh ra" gồm có 5 vị vua:Po Aluah, Po Binnasuar, Po Putik, Po Sulika và Po Klong Garai. Theo Po Dharma, họ không phải là người thường mà là những vị thần linh, tự sinh ra (jiéng éng hay éngkat) và tự giáng thế để cai trị xứ sở Cham. Sau một thời gian lên ngôi, các vị thần thánh này không chết, nhưng trở về thế giới linh thiên (nao meng rup).

Pgs.Ts.Po Dharma cũng cho rằng, đền Po Klong Garai là công trình xây dựng bởi vua Jaya Simhavarman (Chế Mân) vào cuối thế kỷ thứ XIV. Sau thế kỷ thứ XV, vua chúa Panduranga biến vua Chế Mân thành một truyền thuyết thần linh của dân tộc bản địa. Những công trình xây dựng hệ thống mương đập của Po Klong Garai chỉ là tác phẩm của vua Chế Mân để lại. Đây cũng là giai đoạn lịch sử mà dân tộc Champa ở miền nam tìm cách xa lánh dần dần những yếu tố Ấn Giáo ở phía bắc nhằm xây dựng cho mình một nền văn minh mới pha lẫn 3 nền văn hóa: Ấn Giáo, Bản Địa và Hồi Giáo.

Cũng theo Sakkarai Dak Rai Patao, Pgs.Ts.Po Dharma đưa ra, thời kỳ lịch sử của tiểu bang Panduranga, bắt đầu từ triều đại Po Sri Agarang (1205-1247). Lên ngôi năm Sửu, thoái vị năm Mùi (dị bản khác cho là năm Ngọ), trị vì 43 năm, đóng đô ở Bal Hanguw (gần biên giới Krong Pha, Dalat). Tiếp theo, Cei Anâk (1247-1281). Con của vua Po Sri Agarang, lên ngôi năm Mùi, thoái vị năm Tỵ, trị vì 35 năm. Trước tiên, ngài đóng đô ở Bal Hanguw (gần biên giới Krong Pha, Dalat) sau đó dời thủ đô về Bal Anguai (không biết ở đâu)

Hình 8. Pgs.Ts. Po Dharma, tác giả lịch sử 33 năm cuối cùng vương quốc Champa. Tiểu sử Po Dharma - tác giả lịch sử 33 năm cuối cùng vương quốc Champa. 

 

Theo lịch sử Champa:

Vua Po Aluah (Yang Puku Vijaya Sri), trị vì (998 -1006), là vị vua Champa đầu tiên theo tôn giáo Islam (Hồi giáo) trung kiên đã từng sang Mecca (La Mecque) hành hương. Vua Po Aluah (Yang Puku Vijaya Sri) cũng là vị vua Champa đầu tiên dời trung tâm quyền lực từ Indrapura (Đồng Dương) về đặt tại Sri Bini (Qui Nhơn) tại kinh đô Vijaya (Đồ Bàn), vì địa khu Vijaya thuận lợi hơn và ít bị uy hiếp hơn khi có chiến tranh. Yang Puku Vijaya Sri, có nghĩa là: “yang” (nghĩa là: thần, tuhan); “Puku” (còn gọi: Poku, vua của tôi, ngài đáng kính của tôi); Vijaya (chiến thắng, thắng lợi là tên của Công quốc); Sri (श्री, nghĩa là "Đấng thánh").

Vua Po Krung Garay (Jaya Indravarman IV) trị vị  (1167 - 1190). Một số tên khác là Po Krung Giray, Po Kurung Giray, Po Klau Girai, Po Klong Garai, tên hiệu: Sri Jaya Indravarmadeva. Vị vua Champa (Raja-di-raja) đóng đô tại Vijaya thuộc miền bắc Champa, vua ảnh hưởng Islam (Hồi giáo) thuộc sắc tộc Jarai (Jrai). Các con ông gồm công chúa Bhagyavati, công chúa Sumitra, công chúa Sudaksina.

Vua Po Aluah (Yang Puku Vijaya Sri), trị vì (998-1006) và vua Po Krung Garay (Jaya Indravarman IV) trị vị  (1167 - 1190), là các vị vua thuộc kinh đô Vijaya (Đồ Bàn).

Trong giai đoạn này, Champa bị Angkor xâm lược lần thứ nhất vào năm 946, Angkor xâm lược lần thứ hai năm 1080, Angkor chinh phục Champa 30 năm (1203-1220). Khmer chiếm Vijaya, Kauthara và Panduranga.

Trên cao nguyên, vua Jaya Harivarman I (Chế Bì La Bút,) được đông đảo người Rhade, Jarai, Churu, Raglai, Bahnar và người Khmer (có thể là người Thượng thuộc hệ ngôn ngữ Môn Khmer) ủng hộ. Nhà vua tổ chức kháng chiến chiếm lại Panduranga, nhưng lãnh thổ Bắc Champa (Vijaya) vẫn còn nằm trong tay người Khmer. Năm 1148, vua Khmer (Jaya Indravarman III) cử tể tướng Sankara cùng tướng Sipakhya tấn công Panduranga, nhưng bị quân Champa đánh bại tại đồng bằng Kayev, tỉnh Virapura (tiếng Khmer là Rajapura, tiếng Việt là Phan Rang). Năm 1149, Jaya Harivarman I dẫn đầu đoàn quân Champa trên Cao nguyên (Degar - Vijaya) đánh chiếm thành Vijaya, giết Hariveda trên sông Yami (sông Hà Giao, Bình Định). 

Vua Po Krung Garay (Jaya Indravarman IV) trị vị  (1167 - 1190), có công đánh đuổi quân Khmer xâm chiếm Panduranga thống nhất lại đất nước. Kinh đô đặt tại Vijaya (Đồ Bàn, Chà Bàn). 

Năm 1192, vua Po Krung Garay (Jaya Indravarman IV) bị tử trận tại Traik (phía bắc Vijaya-Champa).

 

Từ những cơ sở trên, Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử Cham tại Panduranga gọi Vua Po Aluah (Yang Puku Vijaya Sri), trị vì (998-1006) và vua Po Krung Garay (Jaya Indravarman IV) trị vị  (1167 - 1190), là patao jiéng éng hay patao éngkat "vua tự sinh ra", bởi vì Vua Po Aluah vua Po Krung Garay là các vị vua Champa tại Vijaya, chứ không phải vị vua tại Panduranga. 

Sakkarai Dak Rai Patao do ai đó viết sai sót là do họ tự nhận định. Hơn nữa, cũng theo Sakkarai Dak Rai Patao, thời kỳ lịch sử của tiểu bang Panduranga, bắt đầu từ triều đại Po Sri Agarang (1205-1247). Lên ngôi năm Sửu, thoái vị năm Mùi (dị bản khác cho là năm Ngọ), trị vì 43 năm, đóng đô ở Bal Hanguw (gần biên giới Krong Pha, Dalat). Do đó, các vị vua Champa đóng đô ở Vijaya thì Sakkarai Dak Rai Patao hoàn toàn không biết.

 

Hình 9. Po Krung Garay (Thủ lĩnh Rồng hay thần Rồng).

 

Hình 10. Po Krung Garay (Thần Rồng), trên đồi Trầu, phường Đô Vinh, Tp.Phan Rang. Tháp do vua Chế Mân (Jaya Simhavarman III) xây dựng vào cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14 để tôn kính vua Po Krung Garay (Jaya Indravarman IV). Tháp được công nhận di tích quốc gia đặc biệt vào ngày 22/12/2016.

 

II. Chiến công của Po Krung Garay

2.1. Angkor xâm lược Champa lần thứ 1: năm 946

Vua Indravarman III (Xà-da Nhân-đức-man), trị vì (918-960), là con trai của vua Bhadravarman II. Vị vua Champa (Raja-di-raja), theo tôn giáo Hinduism (Ấn giáo) và tiếp tục sự nghiệp của cha ông trong lãnh vực phát triển tôn giáo Hinduism trở thành quốc giáo.

Năm 918, vua Indravarman III quyết định tạc tượng bằng vàng cho nữ thần Bhagavati (phu nhân Shiva) để thờ phượng và tôn vinh nữ thần Bhagavati từ Yang Pu Kauthara (Thánh Mẫu Nha Trang) trở thành Yang Pu Nagara (Thánh Mẫu Vương Quốc), mà người Champa ngày nay gọi là Yang Po Ina Nagar.

Hành động một vị vua Champa gốc miền bắc Champa đã dâng một phẩm vật cho nữ thần Bhagavati trên đất thánh Kauthara ở phía namthể hiện màu sắc chính trị hơn lòng tin tôn giáo. Bởi, vua Indravarman III muốn dựa vào thế lực tôn giáo để xây dựng một quốc gia Champa thống nhất, vì các tiểu vương quốc ở miền nam như Panduranga thường muốn tự trị. Bên cạnh đó, Indravarman III còn phải đối phó trước mối bang giao với vương triều Angkor (Kampuja) càng ngày càng gay gắt.

Năm 920, một số gia đình thuộc hoàng tộc người Melayu gốc Nam Đảo như Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqid Amr Ali đã trốn chạy khỏi chính sách cai trị khắc nghiệt của tiểu vương Java, được tể tướng Champa là Po Krung Pilih Rajadvara nhận tị nạn. Từ đó, Islam (Hồi giáo) chính thức được phổ biến trong chốn hoàng gia Champa thời vua Indravarman III.

Qua một thời gian ngắn, tôn giáo Islam (Hồi giáo) được đông đảo quần chúng Champa tin theo và cải đạo từ Hinduism sang Islam. Nhân cơ hội, những gia đình quí tộc tị nạn này truyền bá nền văn minh và văn hóa Nam Đảo, đặc biệt là lối kiến trúc và cách điêu khắc cho nghệ nhân Champa. Cũng giai đoạn này, thần dân Champa đã nắm vững kỹ thuật đi biển, biết cách giao lưu buôn bán, giao hảo tốt với các quốc gia lân bang như Trung Hoa và Java. Đây là thời kỳ đầu tiên cũng như sớm nhất tôn giáo Islam (Hồi giáo) được truyền bá vào Champa và trong chốn hoàng gia triều đại vua Indravarman III.

Năm 945, Champa trở thành quốc gia giàu có và thịnh vượng. Vì thấy Champa ngày càng hùng mạnh và ảnh hưởng càng rộng ở Đông Nam Á.

Năm 946, vua Khmer là Rajendravarman II (944-968) cùng binh lính từ Angkor đánh thẳng vào Kauthara-Champa (Ea Terang-Nha Trang), cướp nhiều châu báu trong đó có tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng (Bhagavati là nữ thần Yang Pu Nagara, là vị thần bảo vệ xứ sở, biểu tượng uy quyền của Champa). Sau đó, lực lượng Champa vùng dậy phản công, đánh bại và đẩy lùi đoàn quân Khmer.  Một năm sau, vua Indravarman III tìm cách tái lập lại mối quan hệ ngoại giao với Trung Hoa.

Hình 11. Rajendravarman II (944-968), vua đế chế Khmer lần đầu tiên trong lịch sử đưa quân đội từ Angkor đánh thẳng vào Kauthara-Champa năm 946 và cướp nhiều châu báu trong đó có tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng (Bhagavati là nữ thần Yang Pu Nagara). Ảnh: Kings and Things.

 

Các vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ 9, thế kỷ 10 và trung tâm tôn giáo của Champa cũng chuyển từ Đồng Dương về Mỹ Sơn, đây là thời kỳ văn minh Champa đạt đến đỉnh cao.

Năm 960, vua Indravarman III băng hà, con trai là Jaya Indravarman I lên kế vị.

 

Hình 12. Bimong Yang Po Ina Nagar - Ea Terang (Nha Trang). Đây không phải là Bimong dành riêng cho nữ thần Yang Po Ina Nagar (Thánh mẫu Vương quốc) mà còn thờ 3 vị Nam thần khác là: Shandhaka, Gansha Sri Vinayaka và Sri Malada-Kuthara. Năm 918, vua Indravarman III quyết định tạc hình tượng bằng vàng của nữ thần Bhagavati để thờ phượng và tôn vinh nữ thần Bhagavati từ Yang Pu Kauthara (Thánh Mẫu Nha Trang) trở thành Yang Pu Nagara (Thánh Mẫu Vương Quốc) mà người Cham hôm nay gọi là Yang Po Ina Nagar.

 

2.2 Angkor xâm lược Champa lần thứ 2: năm 1080

+ Triều vương thứ chín (1074-1139): Indrapura-Chiêm Thành

Vua Champa, Harivarman IV (1074 -1080), tên thật là Prince Thang (Hoàng tử Thang), tên tiếng Phạn Vishnumurti, Madhavamurti, Devatamurti. Tên hiệu: Yang Po Ku Vijaya Sri Harivarmmadeva. Vị vua Champa (Raja-di-raja), theo tôn giáo Hinduism. Ông sinh ra tại Quảng Nam (Champa) và mất 1081 tại Indrapura.

Cha ông là một quý tộc thuộc họ Dừa (các bộ tộc phía bắc), còn mẹ ông là thành viên của họ Cau (các bộ lạc phía nam) mà dân chúng Panduranga cho là dòng vương tôn chân truyền của vương quốc Champa. Hoàng tử Thang rất tự hào về nguồn gốc xuất thân của mình, vì luôn tự nhận là sự kết hợp của hai bộ tộc lớn nhất của Champa: cha là Pralaysvara Dharmaraja, dòng Narikelavansa thuộc đẳng cấp Ksatriya, bộ tộc Dừa ở Amaravati; mẹ thuộc dòng Kramukavansa, đẳng cấp Brahman, bộ tộc Cau ở Panduranga.

Hoàng tử Thang cùng hoàng tử Pang (Phang) đã lần lượt chinh phục các tiểu vương sứ quân, thống nhất lại đất nước. Năm 1074, hoàng tử Thang được quần thần tôn lên làm vua, hiệu Harivarman IV, mở đầu cho triều vương mới (triều vương thứ chín).

Trong thời đại trị vì, vua Harivarman IV, cho dựng lại kinh đô Indrapura (Quảng Nam) đã bị bỏ từ lâu và cho xây nhiều đền tại Mỹ Sơn. Champa trở nên hùng mạnh, Harivarman IV mang quân sang đánh Đại Việt, giành lại phần lãnh thổ mà Rudravarman III đã mất trước đó.

Năm 1075, viện cớ phục hồi ngôi vua cho con cháu Rudravarman III (Chế Củ), nhà Lý sai Lý Thường Kiệt mang quân đánh Champa để lấy lại ba châu vừa bị mất nhưng không thành công. Trước sự chống trả mãnh liệt của quân Champa, Lý Thường Kiệt phải lui binh nhưng cho người vẽ lại địa thế rồi đưa một số nông dân gan dạ (thật ra là những binh lính trá hình) vào định cư.

Hay tin quân Lý bị Champa đánh bại, vua Tống sai Vương An Thạch đưa 10.000 quân tiến qua biên giới tấn công Đại Việt. Lý Thường Kiệt lui về bảo vệ lãnh thổ phía bắc. Ba châu không chiếm được lọt vào tay Champa.

Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì kết hợp với Champa và Angkor, đưa 7.000 quân tiến công Đại Việt nhưng bị Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đánh bại. Thừa thắng, Lý Thường Kiệt tiến xuống chiếm đóng đế đô Phật Thành, Harivarman IV phải cùng con cái và một số thân tín chạy lên vùng Degar-Vijaya (Tây Nguyên-Champa); tại đây phái đoàn được các sắc dân người Tây Nguyên che chở. Quân Lý rút khỏi Phật Thành sau khi Harivarman IV tuyên bố hòa bình.

Năm 1080, một hoàng thân Khmer là Sri Nandanavarmadeva, tấn công Vijaya và các trung tâm khác ở miền bắc Champa. Các đền thờ và tu viện bị cướp phá và các kho báu văn hóa và chiếm luôn Panduranga.

Quân đội Champa dưới quyền vua Harivarman IV đã đánh bại quân xâm lược, quân Khmer thua bỏ chạy về nước, Harivarman IV truy đuổi và tiêu diệt hết tại Somesvara (Biên Hòa ngày nay). Nhà vua sai em là hoàng tử Pang (Phang) chiếm thành Sambhupura (Sambor) trên sông Mekong, bắt được nhiều tù binh, vàng bạc và của cải mang về nước.

Khmer Invasions of Northern Champa

Hình 13. Quân Khmer xâm lược bắc Champa năm 1080. Khmer Invasions of Northern Champa year 1080 Ảnh: © Maurice Fievet.

 

Khmer Invasions of Northern Champa

Hình 14. Đế chế Khmer chống lại Vương quốc Champa. Khmer Empire against the Kingdom of Champa. © Image belongs to the respective owner(s).

 

Sau khi dẹp loạn xong, Harivarman IV tập trung phục hồi đất nước. Mặc dù vẫn duy trì triều đình tại Vijaya, nhà vua sửa sang lại các nơi thờ phượng khác trên toàn quốc và cho xây dựng lại các thánh địa tôn giáo tại Indrapura (Đồng Dương) và Simhapura (Mỹ Sơn). Hoàng tử Pang đích thân đôn đốc việc trùng tu các đền thờ tại Simhapura (Mỹ Sơn). Dưới triều vua Harivarman IV, Champa trù phú trở lại, đền đài cung điện tìm lại những nét huy hoàng tráng lệ ngày xưa.

Năm 1080, Harivarman IV nhường ngôi cho con trai là thái tử Vak Pulyan Rajadvara vừa mới 9 tuổi. Tân vương mang hiệu là Jaya Indravarman II (Chế Ma Na) trị vì 1080-1081.

Vua Harivarman IV băng hà năm 1081, hoàng hậu cũng lên dàn hỏa táng theo nghi lễ Sati.

 

Hình 15. Một trong những tấm bia ký do Harivarman IV dựng lên từ Chiên Đan. Ảnh: Danang.

 

2.3. Champa xâm lược Angkor (1170, 1177 - 1181)

Lần đầu tiên trong trong lịch sử, năm 946 Angkor tấn công Champa. Vua Khmer là Rajendravarman II (944 - 968) cùng binh lính từ Angkor đánh thẳng vào Kauthara-Champa (Ea Terang- Aia Terang - Nha Trang), cướp nhiều châu báu trong đó có tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng (Bhagavati là nữ thần Yang Pu Nagara, là vị thần bảo vệ xứ sở, biểu tượng uy quyền của Champa). Sau đó, lực lượng Champa vùng dậy phản công, đánh bại và đẩy lùi đoàn quân Khmer. 

Lần thứ nhì trong lịch sử, năm 1080 Angkor lại tấn công Champa. Một hoàng thân Khmer là Sri Nandanavarmadeva, cho quân tấn công Vijaya và các trung tâm khác ở miền bắc Champa. Các đền thờ và tu viện bị cướp phá và các kho báu văn hóa và chiếm luôn Panduranga. Quân đội Champa dưới quyền vua Harivarman IV đã đánh bại quân xâm lược, quân Khmer thua bỏ chạy về nước, Harivarman IV truy đuổi và tiêu diệt hết tại Somesvara (Biên Hòa ngày nay). Nhà vua sai em là hoàng tử Pang (Phang) chiếm thành Sambhupura (Sambor) trên sông Mekong, bắt được nhiều tù binh, vàng bạc và của cải mang về nước.

Đáp lễ cho hai lần tấn công của Angkor vào Champa, năm 1177, vua Po Krung Garai (Jaya Indravarman IV) lãnh đạo quân Champa tấn công nước Angkor (Đế chế Khmer) bằng một trận thủy chiến ngược dòng sông Mekong, đi thuyền từ cửa sông Cửu Long vào chiếm Vrah Nagar (Prah Nokor, ngày nay là Sài Gòn). Thủ đô Yaśōdharapura (Angkor) của Kambuja đã bị đột kích sau trận hải chiến thắng lợi trên hồ Tonlé Sap bởi một hạm đội Champa dưới quyền Jaya Indravarman IV (vua Champa). Năm 1177, Tribhuvanadityavarman (1166-1177), vua Kambuja (Khmer) đã bị giết. Quân Champa tịch thu nhiều chiến lợi phẩm và bắt theo nhiều tù binh Khmer về nước. Những tù binh này được đối xử tử tế, trở thành dân Champa và hội nhập vào xã hội dân Champa.

 

+ Triều vương thứ mười (1139-1145): Vijaya-Champa

Jaya Indravarman III (1139-1145). Vị vua Champa (Raja-di-raja), theo tôn giáo Hinduism, sinh ra tại Vijaya- Champa và qua đời năm 1145 tại Vijaya-Champa. Tên Jaya Indravarman, hoàng tử Dav Veni Laskmi Sinyang. Vua cha Harivarman V (cha nuôi).

Vua Harivarman V là vị vua trước không có người thừa kế nên thoái vị vào năm 1129. Con nuôi của nhà vua tên Po Sulika được phong làm Thái tử Champa vào năm 1133, hiệu Jaya Indravarman III. Theo các bia ký tại Đồng Dương và Po Ina Nagar, Jaya Indravarman III sinh năm 1106, được nhận vào hoàng tộc năm 1129 tước hiệu Devaraja, được phong vương (Yuvaraja) năm 1133.

Dưới thời Suryavarman II (trị vì 1113 -1150 AD) vương quốc Kambuja (Khmer) thống nhất nội bộ và Angkor Wat, ngôi đền Vaishnavites lớn nhất ở thủ đô Yaśōdharapura (Angkor) được xây dựng trong thời gian 37 năm.

Hình 16.Vua Suryavarman II (1113 -1150), vua đế chế Khmer được miêu tả trong một bức phù điêu tại Angkor Wat. Vua Suryavarman II  đã từng xâm chiếm Champa từ năm 1145 và thất bại Champa năm 1150. Ảnh: Khmer.

 

Năm 1131, Jaya Indravarman III (vua Champa), được vua Angkor Suryavarman II (trị vì 1113 - 1150) thuyết phục Champa tấn công Đại Việt, chiếm nghệ An và Thanh Hóa.

Năm 1139, Jaya Indravarman III lên ngôi vua Champa. Trong quá trình trị vì, ông xây thêm nhiều tượng thần Shiva, Vishnu, Linga để lại nhiều công trình xây dựng theo phong cách Tháp Mẫm ở Bình Định. Năm 1140 ông xây dựng đền thờ tại thánh địa Mỹ Sơn và tu sửa đền Po Ina Nagar ở Nha Trang để xác nhận ông là đẳng cấp Brahman.

Do vua Jaya Indravarman III chủ trương hòa bình với Đại Việt và từ chối tham gia chiến dịch của Đế quốc Khmer chống Đại Việt, nên người Khmer đã tìm cách xâm chiếm vương quốc Champa.

Năm 1145, vua Angkor là Suryavarman II, lãnh đạo quân xâm lược Champa, quân Khmer chiếm thủ đô Vijaya, phá hủy các đền tháp ở Mỹ Sơn. Suryavarman II (vua Angkor) tự xưng là hoàng đế của cả Chân Lạp lẫn Champa.

Kể từ 1145 đến 1149 Angkor chiếm đóng Vijaya, lãnh thổ Khmer được nới rộng lên phía Bắc, từ Champasak (Nam Lào) đến đèo Hải Vân (Bắc Champa), người Khmer trực tiếp điều khiển binh lực Champa.

Vua Jaya Indravarman III (Champa) mất tích trên chiến trường (được thần dân thờ dưới tên Rudraloka) và triều đại này kết thúc.

 

+ Triều vương thứ mười một (1145-1318): Vijaya-Champa

Rudravarman IV (1145-1147), là vị vua Champa (Raja-di-raja). Tên hiệu: Sri Rudravarmadeva. Tên truy tặng: Paramabrahmaloka. Theo tôn giáo Hinduism. Sinh tại Champa và qua đời năm 1147 tại Panduranga (Phan Rang).

Năm 1129, vua Suryavarman II của Đế quốc Khmer đã ép vua Champa Jaya Indravarman III tham gia chống Đại Việt.

Năm 1145, vua Indravarman III hòa hảo với Đại Việt và từ chối hợp tác với vua Khmer. Suryavarman II cho quân xâm lược Champa. Quân Khmer chiếm, lục soát thủ đô Vijaya và lật đổ Indravarman III. Vương quốc Champa đã rơi vào tình trạng hỗn loạn do sự xâm chiếm của quân Khmer.

Năm 1145 hoàng thân Parabrahman được triều thần đưa lên kế vị Jaya Indravarman III, hiệu Rudravarman IV. Vừa lên ngôi, Rudravarman IV cùng con trai là Ratnabhumivijaya (hoàng tử Sivanandana) bị quân Khmer truy lùng ráo riết phải bỏ Vijaya chạy về phía nam Panduranga (Phan Rang) và lập chiến khu trên cao nguyên, nhiều bộ lạc Rhade, Jarai, Churu, Raglai, Bahnar, …gia nhập quân kháng chiến rất đông.

Rudravarman IV qua đời năm 1147 được truy tặng tước hiệu Paramabrahmaloka. Con trai là hoàng tử Sivanandana (Ratnabhumivijaya) được các quan lại Champa phong làm vua Champa với tước hiệu Jaya Harivarman I (Chế Bì La Bút hay Chế Bì Ri Bút).

 

Jaya Harivarman I (Chế Bì La Bút), trị vì (1147-1166), theo tôn giáo Hinduism, là vị vua Champa (Raja-di-raja). Tên thật là hoàng tử Sivanandana (Ratnabhumivijaya), tên vương giả Sri Jaya Harivarmmadeva. Con trai của vua Rudravarman IV. Sinh ra tại Panduranga và qua đời tại Vijaya-Champa. Người vợ tên: Jinnyan.

Năm 1145, vua Khmer Suryavarman II xâm chiếm Champa, chiếm thủ đô Vijaya và phế truất vua Champa là Jaya Indravarman III. Thần dân Champa nổi dậy chống lại quân Khmer chiếm đóng. Trong cuộc nổi dậy, Jaya Harivarman I, được biết đến với tên chính thức là Sivanandana đã trở thành thủ lĩnh của lực lượng nổi dậy.

Năm 1147, Jaya Harivarman I (vua Champa),  đánh bại quân Khmer đang chiếm đóng Champa. Vua Khmer Suryavarman II bị chết trong giai đoạn này.

Mặc dù vua Jaya Harivarman I chiến đấu chống người Khmer xâm lược trong nhiều năm, nhưng ông vẫn tiếp đón Jayavarman VII vị vua Khmer tương lai đang sống lưu vong tại Champa.

 Trên cao nguyên, Jaya Harivarman I được đông đảo người Rhade, Jarai, Churu, Raglai, Bahnar, Kaho và người Khmer (có thể là người Thượng thuộc hệ ngôn ngữ Môn Khmer) ủng hộ. Nhà vua tổ chức kháng chiến chiếm lại Panduranga, nhưng lãnh thổ Bắc Champa (Vijaya) vẫn còn nằm trong tay người Khmer, do em rể vua Jaya Indravarman III là hoàng tử Hariveda (đẳng cấp Ksatriya) cai trị. Vương quốc Champa bị chia đôi.

Năm 1148, vua Khmer (Jaya Indravarman III) cử tể tướng Sankara cùng tướng Sipakhya tấn công Panduranga, nhưng bị quân Champa đánh bại tại đồng bằng Kayev, tỉnh Virapura (tiếng Khmer là Rajapura, tiếng Việt là Phan Rang).

Năm 1149, Jaya Harivarman I dẫn đầu đoàn quân Champa trên Cao nguyên đánh chiếm thành Vijaya, giết Hariveda trên sông Yami (sông Hà Giao, Bình Định), thống nhất lại đất nước. Kinh đô đặt tại Vijaya (Đồ Bàn, Chà Bàn).

Do phân chia quyền lợi không đồng đều, người Rhade, Jarai, Bahnar và nhiều bộ lạc Thượng khác tôn Vansaraja (Ưng Minh Diệp), anh rể Jaya Harivarman I, lãnh đạo phong trào kháng chiến chống lại Jaya Harivarman I.

Năm 1150, sau khi xưng vương tại Madhyamagrama (ngày nay là An Khê, cạnh núi Yang Mung), Vansaraja dẫn đại quân xuống đồng bằng tấn công người Cham, nhưng bị đánh bại tại làng Slay.

Jaya Harivarman I tiến lên cao nguyên càn quét quân nổi loạn, Vansaraja phải chạy vào Đại Việt xin nhà Lý giúp đỡ đưa về làm vua. Lý Anh Tôn sai thương chế Nguyễn Mông mang 5.000 binh sĩ từ Thanh Hóa và Nghệ An vào đánh Champa. Chiến trận đã diễn ra rất là khốc liệt tại Dalva (Đông Hà) và Lavan (La Vang), cả Nguyễn Mông lẫn Vansaraja đều bị tử trận.

Trong những năm sau (1151-1155), quân Champa thường xuyên đánh vào Nghệ An để đòi lại lãnh thổ trước đó đã mất.

Năm 1160, nhà vua mới dẹp xong được loạn, Champa tìm được lại sự hùng mạnh của quá khứ và giao hảo tốt với các nước lân bang. Trong thời gian còn lại vua Jaya Harivarman I đã dành phần lớn thời gian cai trị để củng cố quyền kiểm soát Champa và cho tân trang lại quần thể ngôi đền Yang Pu Ina Nagar.

Vua Jaya Harivarman I qua đời hoặc mất tích vào năm 1166. Người kế vị là con trai tên Jaya Harivarman II lên ngôi vua và nhanh chóng bị lật đổ sau một năm cai trị bởi cuộc khủng hoảng kế vị.

 

Jaya Harivarman II (1166-1167), vua Champa (Raja-di-raja), theo tôn giáo Hinduism. Tên thật là hoàng tử Sakan Vijaya, là con trai vua Jaya Harivarman I.

Năm 1166, vua Jaya Harivarman I băng hà truyền ngôi cho con là hoàng tử Sakan Vijaya, hiệu Jaya Harivarman II. Năm 1167 Sakan Vijaya bị hoàng thân Vatuv Gramapuravijaya soán ngôi, hiệu Jaya Indravarman IV.

Hình 17. Mô tả trận hải chiến giữa Champa và Khmer trên phù điêu Bayon giữa thế kỷ 12. Depiction of a naval battle between the Cham and the Khmer on the Bayon relief. Ảnh: Khmer.

 

Jaya Indravarman IV (1167-1190), Po Kurung Garay, Po Krung Girai, Po Klau Girai, Po Klong Garai, Po Klaong Garay. tên hiệu: Sri Jaya Indravarmadeva. Vị vua Champa (Raja-di-raja) đóng đô tại Vijaya, vua ảnh hưởng Islam (Hồi giáo) thuộc sắc tộc Jarai (Jrai). Các con ông gồm công chúa Bhagyavati, công chúa Sumitra, công chúa Sudaksina.

Jaya Indravarman IV chính là Po Krung Garai người cai trị Vijaya và Panduranga trong giai đoạn này. Jaya Indravarman IV chính là Po Krong Garai người cai trị Panduranga trong giai đoạn này.

Jaya Indravarman IV quyết chí phục thù đế quốc Angkor về việc xâm chiếm và đô hộ Champa. Quân lực Champa dưới thời Jaya Indravarman IV rất giỏi về tượng binh và thủy chiến.

Năm 1170, sau khi điều đình với Đại Việt giữ thế trung lập, Jaya Indravarman IV mang đoàn tượng binh tấn công Chân Lạp, vua Dharanindravarman II (1150-1160) đang cai trị.

Cuộc chiến kéo dài một năm, bất phân thắng bại, sau cùng quân Champa phải rút về nước vì hết lương thực.

Năm 1171, một quan nhân gốc Hoa, quê ở Ki Yang Kiun, Quí Châu, thuộc đảo Hải Nam, bị chìm tàu trôi giạt vào bờ biển Champa và được dân chúng dẫn đến trình diện Jaya Indravarman IV. Người này chỉ cho vua Champa cách cưỡi ngựa xung trận thay vì dùng voi như trước. Sau khi nắm vững được thuật cỡi ngựa, Jaya Indravarman IV cử một đoàn người sang Cửu Châu, đảo Hải Nam (Hainan) để mua ngựa.

Năm 1177, Jaya Indravarman IV lãnh đạo quân Champa tấn công nước Angkor (Đế quốc Khmer) bằng một trận thủy chiến ngược dòng sông Mekong, đi thuyền từ cửa sông Cửu Long vào chiếm Vrah Nagar (Prah Nokor, ngày nay là Sài Gòn).

Thủ đô Yaśōdharapura (Angkor) của Kambuja đã bị đột kích và cướp bóc sau trận hải chiến thắng lợi trên hồ Tonlé Sap bởi một hạm đội Champa dưới quyền Jaya Indravarman IV (vua Champa)

Năm 1177, Tribhuvanadityavarman (1166-1177), vua Kambuja (Khmer) đã bị giết.

Quân Champa tịch thu nhiều chiến lợi phẩm và bắt theo nhiều tù binh Khmer về nước. Những tù binh này được đối xử tử tế, trở thành dân Champa và hội nhập vào xã hội dân Champa.

Trong số tù binh này có một vương tôn Khmer là Jayavarman VII (1181-1218). Lúc còn ở Champa, Jayavarman VII học được cách tổ chức xã hội, cách huấn luyện binh sĩ thủy bộ và còn kết thân được với nhiều hoàng thân của xứ này. Ông được về nước năm 1186 để kế nghiệp anh là vua Yasovarman II, bị soán ngôi.

 

2.4. Angkor chinh phục Champa 30 năm (1190 -1220)

Chiến tranh đế chế Khmer - Champa là một loạt các cuộc xung đột kéo dài từ giữa thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 13. Cuộc đụng độ đầu tiên vào năm 946 khi quân đội Khmer đánh phá tiểu quốc Kauthara của Champa. Căng thẳng giữa đế chế Khmer và Champa lên đến đỉnh điểm vào giữa thế kỷ thứ 12 khi cả hai đã triển khai quân đội dã chiến và tiến hành các cuộc chiến tranh tàn khốc. Đế chế Khmer do dưới áp lực ngày càng gia tăng từ Champa đã rút lui khỏi việc chiếm đóng Champa vào năm 1220. Kể từ đây cuộc xung đột giữa đế chế Khmer và vương quốc Champa mới chính thức kết thúc.

 

Suryajavarman (vua Khmer tại Vijaya), trị vì (1190-1191)

Năm 1177, Jaya Indravarman IV (Po Krung Garay) lãnh đạo quân Champa tấn công nước Angkor (Đế chế Khmer) bằng một trận thủy chiến ngược dòng sông Mekong, đi thuyền từ cửa sông Cửu Long vào chiếm Vrah Nagar (Prah Nokor, ngày nay là Sài Gòn). Thủ đô Yaśōdharapura (Angkor) của Kambuja đã bị đột kích sau trận hải chiến thắng lợi trên hồ Tonlé Sap bởi một hạm đội Champa dưới quyền Jaya Indravarman IV (vua Champa)

Quân Champa tịch thu nhiều chiến lợi phẩm và bắt theo nhiều tù binh Khmer về nước. Những tù binh này được đối xử tử tế, trở thành dân Champa và hội nhập vào xã hội dân Champa.

Trong số tù binh này có một vương tôn Khmer là Jayavarman VII (1181-1218). Lúc còn ở Champa, Jayavarman VII học được cách tổ chức xã hội, cách huấn luyện binh sĩ thủy bộ và còn kết thân được với nhiều hoàng thân của xứ này. Jayavarman VII được thả về Angkor năm 1186 để kế nghiệp anh là vua Yasovarman II, bị soán ngôi. 

Sau khi về Angkor, Jayavarman VII (1181-1218) là vua của Đế quốc Khmer. Ông là con trai của Vua Dharanindravarman II (trị vì 1150 - 1160) và Hoàng hậu Sri Jayarajacudamani.  Jayavarman VII là vị vua đầu tiên sùng đạo Phật tại Khmer. Ông đã cho xây dựng một bức tường của Bayon và Banteay Chmar mô tả trận hải chiến giữa Champa và Angkor như một tượng đài của Phật giáo. Jayavarman VII thường được các nhà sử học coi là vị vua Khmer quyền lực nhất.

Hình 18. Jayavarman VII (1181-1218), vua Đế chế Angkor chinh phục Champa. Ảnh: Sưu tầm.

 

Đế chế Angkor đang trên bờ vực sụp đổ, sau khi Champa chinh phục Angkor. Vua Khmer, Jayavarman VII đã tập hợp một đội quân và đánh chiếm lại kinh đô. Quân đội của Jayavarman VII đã giành được một loạt các chiến thắng chưa từng có trước Champa, và đến năm 1181 sau khi giành chiến thắng trong một trận hải chiến quyết định, Jayavarman VII đã giải cứu đế chế và trục xuất Champa khỏi lãnh thổ. Do đó, ông lên ngôi và tiếp tục tiến hành chiến tranh chống lại Champa cho đến khi người Khmer đánh bại Champa hoàn toàn vào năm 1203 và chinh phục phần lớn lãnh thổ.

Vua Khmer Jayavarman VII, bổ nhiệm một hoàng tử Champa (một vương tôn Champa) tên Sri Vidyanandana, quê ở Tumpraukvijaya (một làng ở Bình Định), đào tẩu đến Angkor lập nghiệp từ 1182 được giáo dục tại Angkor để lãnh đạo quân đội Khmer. Sau khi Sri Vidyanandana dẹp được loạn ở Malyang (Battambang hay Mou Leang, một làng ở vùng phía Đông Chân Lạp), Sri Vidyanandana được vua Jayavarman VII phong một tước hoàng tộc Khmer là Yuvaraja.

Năm 1190, vua Khmer Jayavarman VII sai vương tôn Champa là Sri Vidyanandana đi đánh Champa, ông chiếm được Vijaya, bắt sống Jaya Indravarman IV đưa về Angkor là tù nhân.

Hoàng tử In (một người anh rể của vua Jayavarman VII) được phong làm tiểu vương xứ Nagara Vijaya (bắc Champa), hiệu Surya Jayavarman (hay Surya Jayavarmadeva).

 Một vương tôn Champa tức hoàng thân Sri Vidyanandana được phong làm tiểu vương xứ Rajapura (nam Champa) tức tiểu vương Panduranga và trở thành một chư hầu của Khmer, hiệu Suryavarman (còn gọi là Suryavarmadeva).

Hoàng tử In (vua Surya Jayavarman hay Surya Jayavarmadeva) làm tiểu vương xứ Nagara Vijaya (bắc Champa), và vương tôn Champa Sri Vidyanandana (vua Suryavarman hay Suryavarmadeva) làm tiểu vương xứ Rajapura (nam Champa) tức tiểu vương Panduranga.  Cả hai trở thành một chư hầu của Khmer đặt dưới sự lãnh đạo của vua Khmer Jayavarman VII.

 Vương quốc Champa trở thành một thuộc địa của Angkor. PandurangaVijaya là hai tỉnh của Đế chế Angkor. Người Thượng trên Tây Nguyên-Champa (Degar-Vijaya) không công nhận vương quyền mới này đã cùng một số vương tôn Champa khác tổ chức đánh phá Amavarati, Vijaya Panduranga.

Hình 19. Vua Jaya Indravarman IV (1167-1190). Tên húy: Po Kurung Garay, Po Krung Giray, Po Klau Girai, Po Klong Garai, Po Klaong Garai. Tên hiệu: Sri Jaya Indravarmadeva. Vị vua Champa (Raja-di-raja) đóng đô tại Vijaya, vua ảnh hưởng Islam (Hồi giáo) thuộc sắc tộc Jarai (Jrai). Các con ông gồm công chúa Bhagyavati, công chúa Sumitra, công chúa Sudaksina. Ảnh: Putra Podam.

 

Jaya Indravarman V (Rasupati), trị vì (1191-1192). Vua Chiêm Thành tại Vijaya-Champa

Năm 1191 tại Vijaya (thuộc bắc Champa), vua Khmer, Surya Jayavarman (hoàng tử In) đã bị Rasupati, một hoàng thân Champa, đánh bại phải chạy về lại Angkor. Rasupati tự xưng vua xứ Vijaya, hiệu Jaya Indravarman V, là vị vua Champa (Raja-di-raja), theo tôn giáo Hinduism.

Không nhìn nhận vương quyền mới này, hoàng đế Khmer là Jayavarman VII cho Jaya Indravarman IV (cựu vương Champa và cũng là thân phụ của hoàng tử In) về bắc Champa chiếm lại ngôi báu. Jaya Indravarman IV được Suryavarman (hoàng thân Sri Vidyananda) tiếp sức mới đánh chiếm được Vijaya (thuộc bắc Champa). Rasupati (Jaya Indravarman V) bị bắt và xử trảm.

Thay vì giao thành Vijaya lại cho vua Champa, Suryavarman (hoàng thân Sri Vidyananda) chiếm luôn Vijaya. Cựu vương Jaya Indravarman IV liền kêu gọi dân chúng tại Amavarati và các làng Ulik, Vyar, Jriy, Traik, … tham gia chống lại.

 

Năm 1192, vua Po Krung Garay (Jaya Indravarman IV) bị tử trận tại Traik (phía bắc Vijaya-Champa).

Suryavarman (hoàng thân Sri Vidyananda) thống nhất lại đất nước, lên ngôi vua và tìm cách tách khỏi ảnh hưởng của Đế quốc Angkor.

Conquest of Champa

Hình 20. Vua Khmer Jayavarman VII (1181-1218), đưa quân chống quân đội Champa. Ảnh: North Korean Artists.

 

Suryavarman (vua Khmer tại Panduranga 1190-1192, sau đó làm vua tại Vijaya 1192), trị vì (1192-1203). Tên: Suryavarman, hoàng tử Sri Vidyanandana. Vua Champa (Raja-di-raja), theo tôn giáo Hinduism.

Hay tin hoàng thân Suryavarman làm phản, hoàng đế Khmer Jayavarman VII cử đại quân, trong số này có cả người Tây Nguyên-Champa (do tướng Jai Ramya cầm đầu), sang đánh Champa. Cuộc chiến kéo dài từ 1193 đến 1194, đại quân Khmer bị đánh đại bại.

Thay vì theo quân Khmer về nước, một người Djarai (Jarai) tên Sri Agara chiếm một vùng đất lớn từ Amavarati đến Pidhyan (Phú Giang, bắc Phú Yên) rồi tự xưng vương năm 1193, hiệu Patau Ajna Po Ku.

Tuy đẩy lui được quân Khmer, Suryavarman vẫn lo sợ. Năm 1194, ông dời cư lên Amaravati (Quảng Nam) tránh nạn và giao hảo tốt với Đại Việt vào năm 1198.

Đất nước được thái bình trong vài năm thì Suryavarman bị người chú phản bội tên là Yuvaraja ong Dhanapati Grama (Bố Do) soán ngôi năm 1203. Dhanapati Grama đưa quân Khmer vào chiếm Amaravati, Suryavarman dẫn một hải đội hơn 200 chiến thuyền chạy vào cửa Cửu La (Nghệ An) xin tị nạn. Tại đây, vị hoàng thân Champa bị Dĩ Mông và Phạm Giêng, hai quan trấn thủ Nghệ An làm khó. Suryavarman dùng mưu đốt thuyền của Phạm Giêng và giăng buồm ra khơi mất tích.

Conquest of Champa

Hình 21. Vua Khmer Jayavarman VII, sai vương tôn Champa là Sri Vidyanandana đi đánh Champa vào năm 1190. Cuộc chiến khốc liệt tại tháp Canh Tien (Cánh Tiên) trong nội thành Vijaya. Sri Vidyanandana chiếm được Vijaya, bắt sống vua Jaya Indravarman IV (Po Krung Giray) đưa về Angkor. Ảnh: Chinh phục Champa © Hình ảnh thuộc về chủ sở hữu.

 

Đế quốc Khmer chiếm đóng (1203-1220)

Dhanapati (một vương tôn phản bội Champa, một chính quyền bù nhìn của Khmer) được lệnh vua Khmer đưa quân đội Khmer vào đánh dẹp các cuộc nổi loạn tại Champa, đặc biệt là trên Cao Nguyên-Champa (Degar-Vijaya). Patau Ajna Po Ku (dân tộc Jarai) bị bắt sống đưa về Angkor để trị tội.

Dhanapati được phong toàn quyền cai trị xứ Champa. Champa trở thành một chư hầu của Đế chế Khmer lần thứ hai. Dhanapati được con trưởng của Jaya Harivarman II (1162-1167), sinh sống tại Angkor, tên Ansaraja phụ lực cai trị Champa.

Ansaraja cai quản đất Amavarati, cùng quân đội đánh thuê của Miến Điện (Burmese) và Xiêm La (Siamese) tổ chức nhiều cuộc tấn công vào quân đội Yvan (Dai Viet) thuộc lãnh thổ Đại Việt (Nghệ An) trong những năm 1207, 1216 và 1218; tất cả đều bị quan trấn thủ Nghệ An Lý Bất Nhiêm đẩy lui.

Champa bị đế chế Angkor tái đô hộ trong suốt 17 năm (1203-1220).

Năm 1220 bị quân Xiêm La (Siam) làm áp lực tại chính quốc, quân Khmer rút khỏi Champa. Trong gần 30 năm chống chọi và bị Angkor đô hộ, Champa bị kiệt quệ.

Ansaraja (Angsaräja) đã nắm quyền cai trị một cách hòa bình, tự xưng là Jaya Paramesvaravarman II và khôi phục nền độc lập của Champa.

 

Hình 22. Đền tôn kính vua Jaya Indravarman IV (1167-1190). Tên húy: Po Kurung Garay, Po Krung Giray, Po Klau Girai, Po Klong Garai, Po Klaong Garai. Tên hiệu: Sri Jaya Indravarmadeva. Đền được xếp hạng "Di tích Quốc gia Đặc biệt" vào ngày 22/12/2016 tại Hà Nội.

 

Hình 23. Ngôi đền tôn kính vua Jaya Indravarman IV (1167-1190). Tên húy: Po Kurung Garay, Po Krung Giray, Po Klau Girai, Po Klong Garai, Po Klaong Garai. Tên hiệu: Sri Jaya Indravarmadeva.

 

-----***-----

LINK: Liên kết liên quan

1. Po Krung Garai (Po Klong Garai) vua tộc người Rhade và Jarai

2. Họ “Chế” có nguồn gốc từ người Rhade và người Jarai

3. Vương phi Mỵ Ê (H’Bia Mamih Ea) khác danh xưng "Mih Ai"

4. Kỷ niệm 980 năm Vương phi Mỵ Ê (H’Bia Mamih Ea) 1044-2024

5. Chế Mân vị vua Champa tộc người Raday (Rhade, Jarai)

6. Chế Bồng Nga vua liên bang thuộc kinh thành Vijaya-Degar là tộc người Raday và Jarai

7. Công chúa Hadrah Hajan Kapak tộc Rhade trở thành thứ hậu Bia Than Can của vua Po Rome

8. Chế Bồng Nga và Po Binnasuar là hai nhân vật khác nhau

9. Siege of Angkor (Khmer empire vs Kingdom of Champa)

10. Angkor xâm lược Champa lần thứ 1: năm 946

11. Angkor xâm lược Champa lần thứ 2: năm 1080

12. Champa xâm lược Angkor (1170, 1177–1181)

13. Angkor chinh phục Champa 30 năm (1190-1220)

 

Type the title here

Type the text here