Nguồn gốc và lịch sử Kate Champa

Written by Putra Podam
In category Nghiên cứu
Oct 1, 2025, 10:18 PM

Name: Haji.Prof.PhD.Putra Podam (Văn Ngọc Sáng)
Editor-in-Chief: Champa.one
(Trưởng Ban Biên Tập: Champa.one)
Facebook: Putra Podam
Email: [email protected]

Giới thiệu (Introduction)

Lễ Kate của người Cham là một hiện tượng tôn giáo, văn hóa có nguồn gốc sâu xa từ Hinduism (Ấn giáo), được tiếp nhận và bản địa hóa trong quá trình hình thành và phát triển thời vương quốc Champa. Theo nhiều nghiên cứu, Kate có mối liên hệ nguồn gốc Kartik đó là lễ Diwali một lễ hội ánh sáng của Ấn giáo, được tổ chức vào tháng Kartik trong lịch Hindu. Khi Champa lập quốc, sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn minh và tôn giáo Hinduism (Ấn giáo) đã dẫn đến sự du nhập của nhiều yếu tố nghi lễ, trong đó có Diwali, được người Cham chuyển hóa và định hình thành lễ Kate mang đặc trưng địa phương.

Trong giai đoạn Champa theo Hinduism (Ấn giáo) và trở thành quốc giáo, Kate được cử hành như một nghi lễ hoàng triều, mang ý nghĩa cầu an, tưởng niệm thần linh và tổ tiên. Các nghi lễ được tổ chức tại các trung tâm tôn giáo như tháp Mỹ Sơn, Po Ina Nagar, Po Klong Garay, … với sự tham gia của giới tu sĩ Hindu (cách gọi khác: Balamon hay Bà-la-môn), vương tộc, vương tôn, …. Kate trong giai đoạn này thể hiện triết lý tái sinh, và mối quan hệ thiêng liêng giữa con người, thiên nhiên và thần linh, tương đồng với tinh thần của lễ Diwali trong Hinduism giáo.

Khi Islam (Hồi giáo) du nhập Champa giai đoạn đầu tiên thuộc triều vương Yang Puku Vijaya Sri (tên gọi khác là: Po Allah hay Po Aluah) thế kỷ 10, triều đại vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân) thế kỷ 13, triều đại Che Bunga (Chế Bồng Nga), tôn giáo Islam trở thành quốc giáo tại Champa vào thế kỷ 14. Giai đoạn này tôn giáo Hinduism bị khựng lại gần hoàn toàn và tôn giáo Islam bắt đầu truyền bá rộng rãi đến các tầng lớp thần dân.

Tại tiểu quốc Panduranga, lễ Kate không bị xóa bỏ mà được tái định nghĩa trong khuôn khổ văn hóa tôn giáo mới. Đối với cộng đồng Cham Bani (Cham có đạo), Kate dần chuyển thành lễ tưởng niệm tổ tiên, vua chúa, và anh hùng dân tộc, thể hiện rõ tính dung hợp tôn giáo giữa yếu tố Hinduism và Islam. Sự bảo tồn và thích nghi này phản ánh tính linh hoạt và khả năng đồng hóa văn hóa đặc trưng của xã hội Champa.

Dưới triều vua Po Rome (1627-1651), Kate đạt đến đỉnh cao về ý nghĩa chính trị, xã hội. Nhà vua được tôn vinh như một vị thánh hộ quốc, lễ Kate trở thành nghi thức tưởng niệm quốc vương và tổ tiên dân tộc, đồng thời củng cố bản sắc văn hóa, tôn giáo của thần dân Champa. Từ thời kỳ này, Kate vượt khỏi phạm vi tôn giáo để trở thành biểu tượng tinh thần, kết nối cộng đồng Champa trong bối cảnh biến động lịch sử.

Sau khi Champa sụp đổ, lễ Kate vẫn được duy trì trong cộng đồng Cham tại Ninh Thuận và Bình Thuận. Đặc biệt từ năm 1964, lễ Kate được tổ chức quy mô lớn tại tháp Po Klong Garay, chính thức trở thành lễ hội văn hóa, tôn giáo trọng đại của người Cham. Hiện nay, Kate vừa mang ý nghĩa tín ngưỡng thiêng liêng, vừa là hoạt động văn hóa dân tộc, nơi người Cham tưởng nhớ nguồn cội, gắn kết cộng đồng và bảo tồn di sản văn hóa cổ truyền.

Như vậy, xét trong tiến trình lịch sử, tôn giáo, thì Kate của Champa có nguồn gốc từ Kartik của Hindu âm lịch và Diwali của Hindu giáo có mối tương quan về niên lịch, biểu tượng và triết lý. Cả hai đều diễn ra trong tháng Kate hay Kartik (Tháng 7), hướng đến việc tôn vinh ánh sáng, thần linh, tổ tiên và khởi đầu mới, thể hiện sự giao thoa sâu sắc giữa tôn giáo Hinduism (Ấn giáo) và văn hóa Champa bản địa.


1. Kate (Champa) và Kartik (Ấn Độ)

Kate năm 2025, không khí lễ hội Kate (Katé) náo nhiệt khắp các làng Cham tỉnh Ninh Thuận (nay Khánh Hòa) và tỉnh Bình Thuận (nay Lâm Đồng). Tín đồ Cham Ahier đi làm xa quê đang tính từng ngày để về tụ họp sum vầy cùng gia đình, các chàng trai cô gái và bao trai tài, gái sắc đang đua nhau làm đẹp, mua trang sức, may áo truyền thống Cham, cơ hội trong năm để gặp gỡ và trao duyên,… các học sinh, sinh viên người Cham mong được chính quyền tỉnh nhà quan tâm cho nghĩ Kate 3 ngày để về tề tựu cùng với cha mẹ, ông bà, dòng họ và tổ tiên, …

Kate Champa năm 2025 (Tây lịch Gregorius ) được tổ chức vào Thứ 3, ngày 21/10/2025, nhằm ngày mùng 01/07 Cham lịch. ​Kate (Karti, Kartik, Kartika,... phiên âm từ tiếng Hindi thuộc Hindu Ấn giáo). 

Hình 1. Kate Champa năm 2025, ​được tổ chức vào thứ Ba, ngày 21/10/2025, nhằm ngày mùng 01/07 Cham lịch. ​Kate (Karti, Kartik, Kartika: phiên âm từ tiếng Hindi thuộc Hindu Ấn giáo). 

|| Om namah Shivayah ||

Kartik Ấn Độ năm 2025 (Tây lịch Gregorius ) được tổ chức vào Thứ 3, ngày 21/10/2025, nhằm mùng 01/07 Hindu lịch. Cụ thể: Theo lịch Hindu (Panchang) năm 2082 (2025 Gregorius) như sau:

Hai hệ thống lịch Hindu chính

A). Purnimanta Calendar - “kết thúc vào ngày rằm”

Hệ thống này được sử dụng phổ biến ở Bắc Ấn Độ (như Uttar Pradesh, Bihar, Rajasthan...).

Mỗi tháng bắt đầu sau ngày rằm (Purnima) và kết thúc vào rằm kế tiếp.

Trong hệ này, tháng đầu tiên là Chaitra, bắt đầu ngay sau rằm tháng Phalguna (thường rơi vào tháng 3-4 Dương lịch).

Theo Purnimanta, Kartik (Kartika) là tháng thứ 8.

Thứ tự Tên tháng (months) Tương ứng Dương lịch (Gregorian calendar)
1.   Chaitra  Mar-Apr
2.   Vaisakha  Apr-May
3.   Jyeshtha  May-Jun
4.   Ashadha  Jun-Jul
5.   Shravana  Jul-Aug
6.   Bhadrapada  Aug-Sep
7.   Ashvina  Sep-Oct
8.   Kartika  Oct-Nov
9.   Margashirsha  Nov-Dec
10.   Pausha  Dec-Jan
11.   Magha  Jan-Feb
12.   Phalguna  Feb-Mar

Hình 2. Các tháng theo lịch Hindu năm 2025 (The Hindu months for year 2025), theo hệ thống Purnimanta, thì tháng Kartik (Kartika) là tháng thứ 8 (rơi vào Tây lịch: Oct-Nov).

B). Amanta Calendar - “kết thúc vào ngày không trăng”

Hệ thống này được sử dụng chủ yếu ở Nam Ấn Độ (Tamil Nadu, Kerala, Andhra Pradesh, Maharashtra...).

Trong hệ thống Amanta, mỗi tháng mới bắt đầu ngay sau ngày không trăng (Amavasya) và kết thúc vào Amavasya kế tiếp.

Vì thế, Kartika (tháng thứ 7) thường rơi vào tháng 10 – 11 dương lịch, và là tháng diễn ra lễ Diwali trong nhiều vùng.

Tháng Chaitra trong hệ này bắt đầu sau Amavasya đầu tiên của mùa xuân.

Theo Amanta, Kartik (Kartika) được xem là tháng thứ 7.

Thứ tự Tên tháng (months) Tương ứng Dương lịch (Gregorian calendar)
1.   Chaitra  Mar-Apr
2.   Vaisakha  Apr-May
3.   Jyeshtha  May-Jun
4.   Ashadha  Jun-Jul
5.   Shravana   Jul-Aug
6.   Bhadrapada  Aug-Sep
7.   Kartika  Oct-Nov
8.   Margashirsha  Nov-Dec
9.   Pausha  Dec-Jan
10.   Magha  Jan-Feb
11.   Phalguna  Feb-Mar

Hình 3. Các tháng theo lịch Hindu năm 2025 (The Hindu months for year 2025), theo hệ thống Amanta, thì tháng Kartik (Kartika) là tháng thứ 7 (rơi vào Tây lịch: Oct-Nov).

Trong lịch Hindu theo hệ thống Amanta (tức là tháng kết thúc vào ngày Amavasya - ngày không trăng), tháng Kartika được xem là tháng thứ 7 trong năm.
Dưới đây là toàn bộ 12 tháng theo thứ tự trong hệ thống Amanta (bắt đầu từ Chaitra):

1. Chaitra (चैत्र)

2. Vaishakha (वैशाख)

3. Jyeshtha (ज्येष्ठ)

4. Ashadha (आषाढ़)

5. Shravana (श्रावण)

6. Bhadrapada (भाद्रपद)

7. Kartika (कार्तिक)  tháng thứ 7

8. Margashirsha (मार्गशीर्ष) hay Agrahayana

9. Pausha (पौष)

10. Magha (माघ)

11. Phalguna (फाल्गुन)

12. Chaitra (chu kỳ mới lại bắt đầu)

Hình 4. Các tháng theo lịch Hindu năm 2025 (The Hindu months for year 2025), theo hệ thống Amanta, thì tháng Kartik (Kartika) là tháng thứ 7 (rơi vào Tây lịch: Oct-Nov).

Hình 5. Kartik Ấn Độ năm 2025, được tổ chức lễ Diwali vào thứ Ba, ngày 21/10/2025, nhằm mùng 01/07 Hindu lịch. Tháng Kartik, người Ấn gọi là lễ hội Diwali (Lễ hội Ánh sáng), còn gọi là Lakshmi Puja (Thờ Nữ thần Lakshmi) ở nhiều vùng của Ấn Độ. Diwali là lễ hội ánh sáng lớn nhất trong năm tôn giáo Hinduism (Balamon).

Kate của sắc tộc Cham (chính là Kate thuộc thần dân Champa thời vương quốc) được tổ chức vào thứ Ba, ngày 21/10/2025, nhằm mùng 1 tháng 7 Cham lịch, được diễn ra trùng ngày lễ hội Diwali, nhằm mùng 1 tháng Kartik (tháng 7) Hindu lịch.

Kartik của người Ấn Độ, người Ấn tổ chức lễ hội mang tên: Diwali (Lễ hội Ánh sáng) vào thứ Ba, ngày 21/10/2025, nhằm mùng 1 tháng 7 Hindu lịch, còn gọi là Lakshmi Puja (Thờ Nữ thần Lakshmi) ở nhiều vùng của Ấn Độ. Diwali là lễ hội ánh sáng lớn nhất trong năm tôn giáo Hinduism (Balamon).

Giải thích:

- Kate: của người Cham có nguồn gốc từ Kartik (Kartika) của Hindu (Ấn Độ).

- Kate hay Kartik: là một thuật ngữ để chỉ thứ tự tháng thứ 7 (tháng 7) theo âm lịch Hinduism.

Puja: là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là: Sự tôn kính, cúng kính, cúng dường,... là nghi lễ cốt lõi và thiết yếu của Hindu giáo. Mục đích của Puja là thể hiện lòng tôn kính, sự tôn thờ và lòng biết ơn đối với thần linh, các vị thánh, hoặc thậm chí là một vị khách quan trọng.

- Lakshmi Puja (Worship of Goddess Lakshmi): là một nghi lễ thờ cúng cụ thể, mang ý nghĩa: Thờ cúng Nữ thần Lakshmi. Là hành động cầu xin và tri ân Nữ thần Lakshmi để được ban phước về tài lộc, thịnh vượng, hạnh phúc và sung túc trong năm mới. Nghi lễ được cử hành phổ biến nhất vào ngày thứ ba của lễ hội Diwali (Lễ hội Ánh sáng), một trong những lễ hội lớn và quan trọng nhất ở Ấn Độ.

[(Tương tự lễ Ramadan (Ramawan) của người Cham Agama Awal, theo tiếng Ả Rập để chỉ thứ tự tháng thứ 9 (tháng 9). Nghĩa là tháng 9 theo tiếng Ả Rập tên là "Ramadan". Năm nay Ramadan (Ramawan) sẽ bắt đầu vào tối thứ Ba, ngày 17 tháng 2 năm 2026. Ngày đầu tiên của việc ăn chay sẽ là thứ Tư, ngày 18 tháng 2 năm 2026. Tuy nhiên, ngày chính xác có thể thay đổi tùy thuộc vào việc nhìn thấy trăng lưỡi liềm ở từng khu vực. Ramadan năm 2026 sẽ kết thúc vào khoảng tối thứ Tư, ngày 18 tháng 3 năm 2026 hoặc thứ Năm, ngày 19 tháng 3 năm 2026.]

Hình 6. Kate Champa năm 2025, ​được tổ chức vào thứ Ba, ngày 21/10/2025, nhằm ngày mùng 01/07 Cham lịch. ​Kate (Karti, Kartik, Kartika: phiên âm từ tiếng Hindi thuộc Hindu Ấn giáo). 

Kartik Ấn Độ năm 2025, được tổ chức lễ Diwali vào thứ Ba, ngày 21/10/2025, nhằm mùng 01/07 Hindu lịch. Tháng Kartik, người Ấn gọi là lễ hội Diwali (Lễ hội Ánh sáng), còn gọi là Lakshmi Puja (Thờ Nữ thần Lakshmi).


2. Lịch sử Diwali của Hinduism

Hàng năm, vào khoảng giữa tháng 10 hoặc đầu tháng 11 (tùy theo năm, và phụ thuộc lịch), nhằm vào tháng Karti (Kartik hay Kartika) tháng 7 Hindu lịch, tín đồ theo tôn giáo Hinduism (Ấn giáo) trên khắp thế giới kỷ niệm Diwali (một lễ hội ánh sáng đã có lịch sử hơn 2.500 năm).

Diwali là lễ hội đa diện, nhưng trọng tâm nghi lễ và thờ cúng trong ngày chính là dành cho Nữ thần Lakshmi để cầu mong sự giàu có. Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa lịch sử và triết học, lễ hội tôn vinh sự chiến thắng của Ánh sáng (Chân lý) trước Bóng tối (Vô minh), thông qua các câu chuyện về Rama, Krishna, và các vị thần khác.

Theo lịch sử, Diwali có nguồn gốc từ Ấn Độ cổ đại. Có nhiều truyền thuyết khác nhau chỉ ra nguồn gốc của Diwali.

Một số sắc tộc tin rằng đó là lễ kỷ niệm ngày sinh của nữ thần Lakshmi, vì Lakshmi được cho là sinh vào ngày trăng non của tháng Kartik. Những người khác lại cho rằng là lễ cưới của Lakshmi. Lakshmi là vợ của nam thần Vishnu, tượng trung cho sự giàu có, thịnh vượng, vận may và sắc đẹp. Lakshmi có mặt khắp mọi nơi trong không gian, được biết đến với tên gọi Mahalakshmi, là biểu tượng của sự may mắn và giải thoát khỏi cảnh cơ cực.

Theo kinh Vệ Đà, ngày xưa Ấn Độ từng là vương quốc Ayodhya. Hoàng tử Rama (hóa thân của thần Vishnu) và vợ là Sita (hóa thân của nữ thần Lakshmi), Sita bị quỷ vương Ravan bắt cóc. Nhờ sự giúp sức của thần khỉ Hanunam nên thần Rama đã đánh bại quỷ vương và cứu được Sita.

2.1. Các đối tượng tôn thờ chính

Lễ Diwali của tháng Kartik là dịp để tín đồ Hinduism bày tỏ lòng tôn kính đối với nhiều vị thần quan trọng:

1. Nữ thần Lakshmi (Thần Tài Lộc): Ngày chính của lễ hội (ngày thứ ba) tập trung vào việc thờ cúng Nữ thần Lakshmi, vợ của thần Vishnu.

Ý nghĩa: Người ta tin rằng thờ cúng thần Lakshmi sẽ mang lại may mắn, tài lộc, sự giàu có và thịnh vượng trong suốt năm mới. Các gia đình thực hiện Puja (nghi lễ thờ cúng) cho Lakshmi và Thần Ganesha (Thần Trí tuệ và Vạn sự khởi đầu tốt lành).

2. Thần Rama (Anh hùng): Phổ biến ở miền Bắc Ấn Độ.

Ý nghĩa: Kỷ niệm ngày Thần Rama (vị thần anh hùng, hóa thân của thần Vishnu) trở về kinh đô Ayodhya sau 14 năm lưu đày và sau khi đánh bại quỷ vương Ravana. Việc thắp đèn là để soi sáng đường cho Rama và vợ Sita trở về.

3. Thần Krishna (Hóa thân của Vishnu): Phổ biến ở miền Nam Ấn Độ.

Ý nghĩa: Kỷ niệm việc Thần Krishna (cũng là một hóa thân của thần Vishnu) đã tiêu diệt ác quỷ Narakasura.

4. Nữ thần Kali (Thần Sức mạnh): Phổ biến ở vùng Bengal.

Ý nghĩa: Tôn vinh Nữ thần Kali (một hóa thân của Nữ thần Durga), tượng trưng cho sức mạnh hủy diệt cái ác.

2.2. Thời gian diễn ra lễ hội

Lễ hội Diwali được tổ chức hàng năm vào mùa thu, thường vào giữa tháng 10 đến đầu tháng tháng 11 (thuộc tháng 7 - Kartik theo lịch Hindu Ấn giáo). Thời gian diễn ra khoảng 5 ngày với lễ chính vào ngày thứ ba. Thời gian tổ chức lễ như sau:

Dhanteras: Tín đồ Hindu thường tôn vinh thần Lakshmi. Họ dọn dẹp nhà cửa để cầu xin phước lành của Lakshmi, nữ thần giàu có và thịnh vượng. Ngoài ra họ thường đi mua đồ trang sức vàng, bạc, đồ dùng và các đồ gia dụng mới để thực hiện lễ tục.

Choti Diwali (Naraka Chaturdashi): Tín đồ tôn vinh sự đánh bại của Krishna trước quỷ vương Narakasura. Họ dọn dẹp nhà cửa, trang trí bằng rangolis và diyas, …

Lakshmi Puja: Thường gọi lễ hội Diwali. Tín đồ theo đạo Hindu hầu hết thờ nữ thần Lakshmi trong ngày thứ Ba. Sau khi thực hiện xong buổi lễ đền hay tại khu vực quy định, …, mọi người thường tụ tập để trao đổi quà tặng, thưởng thức những món ăn hảo hạng và truyền thống.

Govardhan Puja hay Padwa: Lễ dành để tôn vinh mối quan hệ giữa vợ và chồng và thường mua quà tặng cho nhau. Một số tín đồ dâng thức ăn cho Krishna để tưởng nhớ, một số khác làm bức tượng bằng đất sét để tái hiện sự kiện này.

Bhai Dooj: Ngày kỷ niệm tình yêu giữa anh chị em, nhằm tôn vinh mối quan hệ giữa Yama và em gái Yami. Phụ nữ thường chấm một dấu tilak (dấu đỏ) lên trán anh trai và sau đó thường tặng quà cho nhau.

Hình 7. Tháng Kartik năm 2082 (Kalayukta) thuộc năm 2025 (Tây lịch), lễ Diwwali ​được tổ chức vào thứ Ba, ngày 21/10/2025, nhằm ngày mùng 01/07 Cham lịch. ​Kate (Karti, Kartik, Kartika: phiên âm từ tiếng Hindi thuộc Hindu Ấn giáo). 


3. Kate tại Champa

Theo Hinduism (Ấn giáo), tháng Kartik (Karti, Kartik hay Kartika), là tháng bắt đầu từ ngày trăng tròn của tháng Ashvina (Āśvina Purnima) và kéo dài cho đến ngày trăng tròn kế tiếp (Kārttika Purnima), theo lịch Hindu Purnimanta. Trường hợp tính theo Purnimanta, thì tháng Kartik tương đương giữa tháng 10 đến giữa tháng 11 dương lịch. Tháng Kartik, tín đồ Hinduism tổ chức lễ lớn nhất trong tháng mang tên: Diwali (lễ đã có lịch sử hơn 2.500 năm).

Tại Champa vương quốc, Kate (Katé) xuất hiện sớm nhất có thể từ triều đại vua Bhadravarman I, thời Lâm Ấp (Linyi), khi Hinduism (Ấn giáo) trở thành tôn giáo chính thức, chiếm ưu thế ngay từ giai đoạn thành lập vương quốc tiền thân, được củng cố mạnh mẽ nhất vào thế kỷ thứ 4 và trở thành Hinduism quốc giáo tại Lâm Ấp (Línyì).

Kate đã tiếp nhận từ Kartik (lễ tháng 7 theo lịch Hinduism của Ấn giáo). Do vậy, nghi lễ Kate thời Lâm Ấp (Línyì) hay thời Hoàn Vương (Huánwáng) đều được tổ chức trên đền tháp và những nơi linh thiêng.

Kartik của Hindu lịch (Ấn giáo lịch) lễ được mang tên Diwali, là lễ hội đa diện, nhưng trọng tâm nghi lễ và thờ cúng trong ngày chính dành cho Nữ thần Lakshmi (phu nhân thần Vishnu) để cầu mong sự giàu có. Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa lịch sử và triết học, lễ hội tôn vinh sự chiến thắng của Ánh sáng (Chân lý) trước Bóng tối (Vô minh), thông qua các câu chuyện về Rama, Krishna, Ganesha và các vị thần khác.

Kate vào thời điểm này được tổ chức tại đền tháp là để thờ cúng các vị thần Hinduism (Ấn giáo) như Vishnu, Lakshmi, Shiva, Parvati, Rama, Krishna, Ganesha, … và các vị vua Lâm Ấp (Línyì), Hoàn Vương (Huánwáng), Chiêm Thành (Zhànchéng) hóa thân Shiva.

Tiểu kết 1 (Sub-Conclusion):

Kate thời Lâm Ấp (Línyì) hay thời Hoàn Vương (Huánwáng) đều được tổ chức trên đền tháp và những nơi linh thiêng nhằm để tôn thờ các vị thần Hinduism (Ấn giáo) như Vishnu, Lakshmi, Shiva, Parvati, Rama, Krishna, Ganesha, … và các vị vua Lâm Ấp (Línyì), Hoàn Vương (Huánwáng), Chiêm Thành (Zhànchéng) hóa thân Shiva.

Tại kinh đô Vijaya-Champa, khi tôn giáo Islam (Asulam, Athulam, Athalam: trong văn bản Champa) trở thành quốc giáo vào triều đại vua Che Bunga (Chế Bồng Nga), là vua Sultan Zainal Abidin, hiệu Jaya Varman, vào đầu thế kỷ 14 (1360), thì Kate có thể không còn thờ cúng các vị thần linh Hinduism (Ấn giáo), mà thay vào đó lễ Kate mang hình thức ghi công lao của các vị vua Champa hóa thân Shiva, lễ Kate có thể tồn tại cho đến khi kinh đô Vijaya sụp đổ hoàn toàn vào vương triều Maha Sajan (1471) thế kỷ 15.

Hình 8. Lễ hội Kate được tổ chức trên đền tháp Po Krung Garay (Po Klong Garay) tổ chức vào thứ Ba, ngày 21/10/2025, nhằm ngày mùng 01/07 Cham lịch. ​Kate (Karti, Kartik, Kartika: phiên âm từ tiếng Hindi thuộc Hindu Ấn giáo). 


4. Kate tại Panduranga

Tại Panduranga, Islam (Hồi giáo) đã du nhập vương quốc Champa từ trước đó, nhưng phải đến thế kỷ 17 dưới triều vua Po Rome (1627-1651), tiểu quốc Panduranga (Champa muộn) có sự phát triển mạnh về văn hóa, tôn giáo.

Dưới triều vua Po Rome, khi Islam (Hồi giáo) phát triển cực thịnh tại Panduranga, lễ Kate của Champa Hinduism vẫn tiếp tục được duy trì như một nghi lễ truyền thống quan trọng. Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội đa tôn giáo, vua Po Rome (Nik Mustafa hay vua Sultan Abdul Hamid Shah) đã điều chỉnh lễ Kate sao cho phù hợp trong hoàn cảnh mới, lúc này, Kate không còn là nghi thức của Hinduism thời Champa vương quốc, mà lễ Kate mang tính cộng đồng rộng mở hơn. Các nghi thức tôn thờ thần linh Hinduism xưa được thay thế bởi nghi thức tôn kính các vị vua Champa và anh hùng dân tộc Champa được duy trì trong đền tháp, nhưng tinh thần lễ được mở rộng thành ngày văn hóa chung, tạo sự cân bằng giữa tôn giáo Bani Awal (Hồi giáo sớm) và Bani Ahier (Hồi giáo muộn còn ảnh hưởng Hinduism hay dân gian truyền thống) đang phát triển, qua đó củng cố sự đoàn kết các thần dân trong tiểu vương quốc Panduranga.

Hình 9. Po Rome (1627-1651). Nik Mustafa: Tên gọi tắt. Sultan Abdul Hamid Shah: Tên vị vua Po Rome sau khi lên ngôi là niên hiệu của vua Po Rome trong sử Malaysia. Nik Mustafa Bin Wan Abul Muzaffar Waliyullah là tên chính thức có danh phận thành viên của dòng dõi vương triều theo Islam tại Malaysia. Sultan Abdul Hamid Shah Bin Syarif Wan Abu Muzaffar Bin Syarif Wan Abdullah Umdatuddin: Tên đầy đủ của vị vua Po Rome sau khi lên ngôi vua. Biên niên sử Malaysia ghi lại rằng vua trị vì tại tiểu vương quốc Kelantan hôm nay là dòng giỏi của vua Po Rome. Tại Panduranga, vua Po Rome được kế thừa từ triều đại Po Klong Mah Nai (Po Mah Taha), vua Po Klong Mah Nai cũng là vị vua Panduranga thời kỳ Islam hùng mạnh. Ảnh: Putra Podam.

Sau khi mất Panduranga, chấm dứt Panduranga độc lập vào năm 1692, và tiếp theo mất Thuận Thành trấn, xóa bỏ quyền tự trị cuối cùng của Bal Canar vào năm 1832.

Người Pháp bắt đầu can thiệp bằng cách tấn công Đà Nẵng từ năm 1858, sau nhiều cuộc chiến, triều đình Huế ký Hiệp ước Giáp Tuất (1874): công nhận chủ quyền của Pháp ở Nam Kỳ, và Hiệp ước Patenôtre (1884): triều Nguyễn thừa nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn Việt Nam (Bắc Kỳ và Trung Kỳ). Năm 1884 Pháp chính thức thiết lập chế độ thuộc địa - bảo hộ trên toàn cõi Việt Nam.

Nam Bàn là một trong những tiểu quốc của Champa trên vùng Tây Nguyên (Champa thượng, Vijaya Degar, Montagnard). Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ban hành cải tổ hành chính là lúc hệ thống tiểu quốc Nam Bàn bị giải thể trên giấy tờ vào năm 1889 và việc xóa bỏ hoàn toàn quyền tự trị Nam Bàn và thay thế bằng bộ máy Pháp được hoàn tất và chính thức vào năm 1901, khi Pháp thiết lập đầy đủ cơ cấu hành chính ở cao nguyên Lâm Viên - Dalat - Lâm Đồng.

Sau khi Ngô Đình Diệm lên nắm quyền ở Việt Nam Cộng hòa (1955), chính quyền trung ương thực hiện chính sách “Tây tiến”, tức mở rộng và củng cố quyền kiểm soát của nhà nước đối với Tây Nguyên, nơi trước đây có các cộng đồng dân tộc thiểu số và các vùng từng có quyền tự trị.

Theo lịch sử, chính sách “Tây tiến” được triển khai chính thức vào năm 1958 - 1959, với các biện pháp hành chính, quân sự và định cư nhằm xóa bỏ quyền tự trị của các vùng Tây Nguyên, đưa vùng này trực thuộc quản lý trực tiếp của chính quyền trung ương Sài Gòn.

Phong trào BaJaRaKa chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 5 năm 1958 tại Tây Nguyên, do một nhóm trí thức người Thượng (Montagnard) đứng đầu là Y Bham Enoul (người Rhade). Tên gọi BaJaRaKa là chữ viết tắt của bốn dân tộc chủ yếu tại Tây Nguyên: Bahnar (Bana), Jarai (Jrai), Rhade (Ede) và Kaho (K’ho). BaJaRaKa , là tiền thân quan trọng của phong trào FULRO (Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức), được thành lập vào năm 1964, nhằm tiếp tục đấu tranh cho quyền tự quyết của các dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên, Champa, Khmer Krom, Khmer Nord và các vùng khác.

Sau khi mất Panduranga (1692), Thuận Thành trấn (1832), Nam Bàn (1901), Tây Nguyên (Vijaya Degar, Champa thượng) mất tự trị vào năm 1958, thì quyền tự chủ của người Cham và các thần dân Champa không còn, kéo theo nhiều biến động về văn hóa và tôn giáo. Lễ Kate, vốn là nghi lễ quan trọng gắn liền với vương quyền và các đền tháp, có nguy cơ bị gián đoạn hoặc dừng tổ chức hẳn do nhiều yếu tố: chính quyền mới áp đặt, không còn các chức sắc bên Agama Awal và Agama Ahier để thực hiện lễ tục, dân số Cham và thần dân Champa bị phân tán khắp nơi, cùng áp lực từ các chính sách đồng hóa văn hóa.

Tuy nhiên, cộng đồng người Cham Ahier vẫn lưu giữ trong tâm thức về lễ Kate nói chung và các lễ khác nói riêng, và Kate có thể được thực hiện ở mức hạn chế, hay họ chỉ lên tháp để thực hiện một số lễ tục cần thiết dưới hình thức cá nhân hay dòng họ khi họ đã cầu nguyện, hứa với thần yang về một điều gì đó.

Năm 1964, dưới thời Dương Tấn Sở, Đại úy trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ông giữ chức Quận trưởng quận An Phước tại Ninh Thuận vào năm 1964. Thời điểm đó, ông đã tổ chức lễ và hội Kate trên đền tháp Champa và mời tiếp khách, quan chức ngoại quốc và người ngoài cộng đồng Cham theo lối hành chính và ngoại giao của chính quyền Sài Gòn.

Hành động này được một số người Cham coi là “sai lệch” so với nghi lễ truyền thống, vì lễ Kate vốn là nghi thức tôn giáo nội bộ, gắn với các chức sắc Agama Ahier. Sự kiện phản ánh căng thẳng giữa việc duy trì nghi lễ truyền thống với can thiệp của chính quyền trung ương, đồng thời thể hiện chính sách dùng lễ và hội để thể hiện quyền lực và quan hệ ngoại giao.

Giai đoạn này, Kate tại vùng Ninh Thuận và Bình Thuận, chỉ là nghi lễ dành cho vua, chúa Champa hóa thần theo quan điểm của người Cham Ahier và tôn vinh, ghi công các anh hùng Cham và Champa như:

- Vua Champa được tôn kính trong đền hay tháp Champa như: Po Ina Nagar, Po Krung Garay (Po Klong Garay), Po Rome.

- Các vị Wali (hiền nhân, thánh nhân) có nguồn gốc Islam (Hồi Giáo) như: Po Ali (phu quân Fatimah), Po Fatimah (phu nhân Ali), Po At, Po Gahluw, Po Cahya, Po Biruw, Po Tang Ahaok, Po Riyak, Po Haniim Par, Po Nai Mah Ghang, … Cei Asit, Cei Sak Bingu (cei Khan Mah Bin Bingu), H'bia Kati, … yang Po Rome. Ghi chú: từ "Po" trong đoạn này mang nghĩa là "ngài", nhân vật được tôn kính của Hồi giáo và tại Champa.

Trước năm 1975, lễ Kate chỉ được tổ chức ở Phan Rang (Panrang), vì tại Phan Rang có vị Po Adhia (Po Ahiya, Po Adhia, Po Ahiya). Po Adhia là người giữ vai trò quan trọng trong việc chứng giám và chỉ đạo chính cho nghi lễ Kate theo tín ngưỡng của người Cham Ahier, ông được tôn kính như bậc Thầy của tri thức và nghi lễ. Po Adhia thuộc nhóm Po Gru, giữ vai trò mở đầu và soi sáng nghi lễ. Vì thế, Po Adhia được xem là biểu tượng của trí tuệ, trật tự và thiêng liêng, bảo đảm cho lễ Kate diễn ra trang nghiêm, hợp đạo và mang lại phúc lành cho cộng đồng. Tại khu vực Phan Rang, lễ Kate thường được cử hành tại đền Po Ina Nagar, Po Klong Garay và Po Rome.

Trong khi đó, tại khu vực Phan Rí (Parik), giai đoạn trước năm 1975, Kate không được tổ chức trên đền tháp vì thời điểm đó tại Bình Thuận vẫn chưa có Po Adhia. Sau năm 1975, mãi đến năm 1995, Bình Thuận mới có Po Adhia và đền tháp Po Shah Anaih được tổ chức lễ hội Kate. (Ghi chú: Đền Po Sah Anaih được xây vào cuối thế kỷ thứ 8 đầu thế kỷ thứ 9, để thờ vị thần Shiva một trong những vị thần Ấn Độ giáo được sùng bái và tôn kính. Hiện nay Bình Thuận đặt tên tháp này thành đền: Po Sah Ina [nư] là hoàn toàn không đúng. Vì thế kỷ 15, tại nhóm đền Po Sah Anaih, thần dân Champa có xây thêm một số đền với kiến trúc đơn giản để thờ công chúa Po Sha Ina (Po Sah Inâ). Phần đền Po Sah Ina đã bị phá hủy chỉ còn phần mống. Đền Po Sah Ina hay Công chúa Bàn Tranh, có ngôi đền thờ cổ tại xã Long Hải, đảo Phú Quý, mà người dân địa phương gọi là Đền miếu Bà Chúa.)

Ngoài ra, chức sắc thực hiện trong nghi lễ Kate gồm: Basaih (ảnh hưởng tăng lữ Ấn giáo) có nhiệm vụ dâng lễ vật, đọc kinh cầu nguyện, mời các thần linh (yang) về chứng giám tại buổi lễ. Mọi lời cầu nguyện, tạ ơn, và chúc phúc đều phải thông qua Basaih.

Trong lễ Kate của người Cham Ahier, Po Adhia và Basaih là người giữ vai trò trung tâm. Po Adhia người giữ vai trò quan trọng trong việc chứng giám và chỉ đạo chính bảo đảm mọi nghi thức diễn ra đúng phép. Còn Basaih là người chủ trì toàn bộ nghi lễ tại tháp, dâng lễ vật, tắm tượng thần và cầu phúc cho dân làng. Cả hai vị tượng trưng cho sự kết hợp giữa trí tuệ thiêng liêng và hành động nhân gian, bảo đảm cho lễ Kate được thiêng liêng, trật tự và trọn vẹn phúc lành.

Ông Kadhar là vị tu sĩ thánh ca, giữ vai trò hát thánh nhạc trong nghi lễ Kate. Ông là người mở đầu và kết thúc nghi lễ bằng lời ca thiêng, giúp cầu mời và tiễn đưa thần linh. Trong lễ Kate, Kadhar đi cùng Basaih để đọc kinh, hát thánh ca, và giữ cho không gian nghi lễ luôn linh thiêng. Đối với người Cham Ahier, tiếng tụng của Kadhar là cầu nối âm thanh giữa thế giới con người và thế giới thần linh.

Ông Camanei (Camenai, Camaneh) là người trông coi, giữ gìn và bảo vệ đền tháp Champa, giữ gìn an toàn và trật tự của đền tháp, bảo vệ vật phẩm thờ cúng, bát lửa, nước thiêng, trầm hương, đảm bảo mọi nghi lễ diễn ra trang nghiêm, đúng trật tự và đúng phép tắc, đồng thời giúp cộng đồng tiếp cận thần linh một cách thanh tịnh. Trong ngày lễ Kate, ông Camanei phải hỗ trợ Basaih và Kadhar, kiểm soát không gian thờ, chuẩn bị lễ vật, dọn dẹp và sắp xếp các vật linh thiêng, đồng thời giữ cho thần linh hiện diện trong tháp không bị xáo trộn. Ông Camanei tượng trưng cho sự trật tự và bảo vệ linh khí của tháp, là cầu nối giữa cộng đồng và thế giới thần linh.

Muk Pajau: là một trong những chức sắc nghi lễ phụ trợ quan trọng trong lễ Kate của người Cham Ahier, là người chuẩn bị lễ vật và không gian cúng như sắp xếp hoa, trái cây, nước thiêng, trầm hương và các vật phẩm cúng tế, đảm bảo vị trí đặt lễ vật đúng theo nghi thức truyền thống. Tóm lại, Muk Pajau là chức sắc phụ lễ, chịu trách nhiệm chuẩn bị lễ vật, dẫn dắt nghi thức phụ, hỗ trợ Basaih và Kadhar, đồng thời giữ trật tự và linh khí cho không gian cúng tế, là cầu nối giữa thầy lễ chính và cộng đồng, giúp lễ Kate diễn ra trang nghiêm, đúng phép và ý nghĩa tâm linh.

Tiểu kết 2 (Sub-Conclusion):

Tại Panduranga, giai đoạn triều vương Po Rome (Nik Mustafa hay vua Sultan Abdul Hamid Shah) thế kỷ 17 (1627-1651), lễ Kate của thần dân Champa nói chung và của người Cham Ahier (agama Ahier - Hồi giáo muộn) được tổ chức nhằm tưởng nhớ, tôn kính, ghi ơn, ghi công, … của một số vị vua chúa Champa, anh hùng dân tộc Champa và tổ tiên Champa đã khuất. Kate giai đoạn này không còn tôn thờ các vị thần linh của Hinduism (Ấn giáo), mà thay vào đó ca ngợi các vị thánh, anh hùng dân tộc Champa có nguồn gốc Islam (Hồi Giáo).

Lễ Kate vừa là nghi thức tôn giáo trang nghiêm, vừa là dịp để thần dân Champa tri ân quá khứ, ghi nhớ công đức các bậc tiền nhân và củng cố bản sắc văn hóa Champa. Trong không gian tháp cổ và nghi lễ cúng tế, dân làng dâng lễ vật, hát tụng và cầu phúc, thể hiện sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc đối với những người đã đóng góp cho sự phát triển và bảo vệ cộng đồng.

Tại Phan Rang trước năm 1975, Lễ Kate thường được cử hành tại đền Po Ina Nagar, Po Klong Garay và Po Rome. Trong khi đó, tại khu vực Phan Rí (Parik), lễ Kate không được tổ chức trên đền tháp vì tại Phan Rí không có Po Adhia.

Kate của người Cham Ahier ngày nay, ảnh hưởng rất ít yếu tố của Hinduism (Ấn giáo), đó chỉ là những tàn dư của một thời kỳ Ấn hóa tại Champa. Kate là sự kết nối phức tạp từ thời Ấn hóa và trở thành tín ngưỡng bản địa, sau khi Islam (Hồi Giáo) trở thành quốc giáo vào thế kỷ 14 và phát triển cực thịnh vào thế kỷ 17.

Hình 10. Lễ hội Kate được tổ chức trên đền tháp Po Rome (Nik Mustafa hay vua Sultan Abdul Hamid Shah)) tổ chức vào thứ Ba, ngày 21/10/2025, nhằm ngày mùng 01/07 Cham lịch. ​Kate (Karti, Kartik, Kartika: phiên âm từ tiếng Hindi thuộc Hindu Ấn giáo). 


5. Giai đoạn chính tôn giáo tại Champa

Champa (thế kỷ 2 đến thế kỷ 20) là một vương quốc nằm ở miền Trung Việt Nam ngày nay. Champa là một quốc gia đa chủng tộc (nhiều sắc tộc như: Jarai (Jrai), Rhade (Rađê), Cham (Chàm, Chăm), Churu (Chru), Raglay (Raglai), Haroi (Hroi), Kaho (K'ho, Kho), Bunong (Mnong), Bahnar (Banar), Stieng (S'tiêng), Katu, Sedang, Hre, Jeh, Bru, Co, ...), và đa văn hóa, nơi các dân tộc và tôn giáo khác nhau cùng tồn tại, ảnh hưởng lẫn nhau trong đời sống chính trị, văn hóa và tôn giáo. Sự đa dạng này góp phần tạo nên bản sắc đặc trưng của vương quốc Champa qua các di tích đền, tháp và các truyền thống tôn giáo phong phú.

5.1. Các tiểu bang (Negeri) của Champa

Champa không phải lúc nào cũng là một quốc gia thống nhất, mà gồm nhiều tiểu bang (negeri, châu, vùng lãnh thổ) tự trị, mỗi vùng thường có một thủ lĩnh riêng hay vua riêng. Một số tiểu bang tiêu biểu:

Tiểu bang
Vị trí hiện nay
Thời kỳ tồn tại
Ghi chú
 Indrapura
 Quảng Bình - Quảng Trị
 Thế kỷ 9 -10
 Kinh đô sớm của Champa
 Vijaya
 Bình Định
 Thế kỷ 10 -15
 Kinh đô Champa sau Indrapura
 Kauthara
 Ea Terang - Nha Trang
 757-1653
 Nam Champa, tồn tại lâu
 Panduranga
 Ninh - Bình Thuận
 757-1832
 Nam Champa, tồn tại lâu nhất
 Amaravati
 Quảng Nam
 Thế kỷ 10 -13
 Thuộc Champa
 Ea Ru
 Phú Yên
 Thế kỷ 15 -17
 Thuộc Champa
  Nam Bàn
 Cao Nguyên Trung Bộ
 1471- thế kỷ 20
 Vijaya Degar thuộc Champa

5.2. Giai đoạn lịch sử

Champa là một vương quốc cổ nằm ở miền Trung Việt Nam, tồn tại từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 20. Thay vì là một quốc gia thống nhất, Champa được tổ chức thành nhiều tiểu bang (Negeri). Những tiểu bang nổi bật bao gồm Indrapura, Amaravati, Vijaya, Ea Ru, Kauthara, Panduranga, Nam Bàn, trải dài từ Quảng Bình đến Bình Thuận, Đồng Nai, Vũng Tàu ngày nay. Sự phân tán này vừa cho phép Champa duy trì sự linh hoạt trong chính trị và quân sự, vừa thể hiện bản sắc văn hóa đa dạng, với mỗi tiểu bang phát triển các truyền thống tôn giáo và văn hóa riêng, tạo nên một vương quốc đa dạng về dân tộc, ngôn ngữ và tôn giáo.

- Lâm Ấp (林邑 / Línyì: phiên âm Hán), giai đoạn (192 - 757): tiền thân Champa.

- Hoàn Vương (環王 / Huánwáng: phiên âm Hán), giai đoạn (758 - 859): tiền thân Champa.

- Chiêm Thành (占城 / Zhànchéng: phiên âm Hán), giai đoạn (859 - 1471): Champa (Campāpura).

- Hoa Anh (花英 / Huā Yīng: phiên âm Hán), giai đoạn (1471 - 1611): Ea Ru - Phú Yên, thuộc Champa.

- Kauthara (高多羅 / Gāoduōluó: phiên âm Hán), giai đoạn (757 - 1653): Ea Terang - NhaTrang, thuộc Champa

- Panduranga (पाण्डुरङ्ग / Pāṇḍuraṅga, Chữ Devanagari, chữ viết chuẩn của Sanskrit), giai đoạn (757-1832): Ninh Thuận, Bình Thuận (tiểu quốc phía Nam Champa hay Champa muộn).

- Nam Bàn (南盤 / Nánpán: phiên âm Hán), giai đoạn (1471 - thế kỷ 20): Vijaya Degar - Cao Nguyên Champa (thuộc Champa).

5.3. Champa tiếp nhận Hinduism

Champa vương quốc được sáng lập (Founding) hay khởi dựng (Initiating, Building) dưới tên gọi Lâm Ấp (Lín Yí) vào năm 192 (thế kỷ 2), ảnh hưởng tôn giáo Hinduism (tên gọi khác tại Việt Nam: Balamon hay Bà-la-môn) trải qua thời kỳ Ấn hóa cho đến gần thế kỷ 14 (XIV). Giai đoạn này, mặc dù Champa theo Agama Hinduism (Bani Hindu hay Agama Hindu), nhưng Agama Hindu chỉ giành cho giới vua (King), chúa (Lord), vương tộc (Royal family), vương tôn (Prince), … và các tầng lớp quý tộc (Nobility). Nghĩa là Hinduism ở Champa vương quốc chưa được truyền bá đến các tầng lớp thần dân và các sắc tộc Champa thời ấy.

Dưới triều đại vua Bhadravarman I, trị vì (380 - 413), vị vua Lâm Ấp (Lín Yí), theo tôn giáo Hinduism. Trong lịch sử thời Champa Vương quốc, Hinduism (Ấn giáo) đã trở thành tôn giáo chính thức, chiếm ưu thế ngay từ giai đoạn thành lập vương quốc tiền thân, và được củng cố mạnh mẽ nhất vào thế kỷ thứ 4 (IV).

Vua Bhadravarman I, là người đã đặt viên đá đầu tiên xây nhiều đền (Temple), tháp (Tower) và cung điện (Temple Complex) tại Mỹ Sơn (Quảng Nam) để tôn thờ thần Shiva (Lord Shiva), dưới danh hiệu Bhadresvara (tên thần kết hợp với tên vua). Hành động này nhằm củng cố vị thế Shiva giáo như là tôn giáo chính thống tại Champa. Bhadravarman I, còn là một học giả nổi tiếng, thông thạo cả bốn kinh Vệ Đà (Vedas). Ông cũng là tác giả của một số văn khắc bằng tiếng Phạn (Sanskrit), và cho mời những người theo Hinduism (chủ yếu là tầng lớp: Brahmins) uyên bác từ Ấn Độ (India) đến định cư tại vương quốc Champa.

Căn cứ vào các bằng chứng khảo cổ học và bia ký, Hinduism (Ấn giáo) đã trở thành quốc giáo Champa dưới triều đại Bhadravarman I, vào khoảng thế kỷ thứ 4 (IV).

Sang vương triều vua Prithivindravarman, trị vì (757-770). Vị vua Hoàn Vương (Huán Wáng), theo tôn giáo Hinduism. Prithivindravarman là vị vua đầu tiên khởi xướng việc thờ phụng nữ thần Parvati hay Bhagavati (phu nhân của thần Shiva) biểu tượng của Hinduism (Ấn giáo). Năm (646-653), ngôi tháp bằng gỗ thờ nữ vương Jagaddharma, đã được vua Prithivindravarman xây dựng lại để thờ nữ thần Bhagavati tại đền Po Ina Nagar thuộc Kauthara (Khánh Hòa). Dưới thời Prithivindravarman, văn minh và văn hóa Ấn giáo, tiếng Phạn được phổ biến rộng rãi trong giới vương quyền và các nơi thờ phụng. Giai đoạn này Champa thịnh vượng phát triển đạt đỉnh cao về nghệ thuật, văn học và sự ổn định. Các thành phố cảng Champa thống trị các tuyến thương mại hàng hải qua Biển Đông, từ Ấn Độ, Trung Đông, đến Đông Nam Á và đến nhà Đường, Trung Quốc.

Sang vương triều vua Indravarman III, trị vì (918 - 960), là con trai của vua Bhadravarman II. Vị vua Chiêm Thành (Zhān Chéng) hay vua Champa (Raja-di-raja), theo tôn giáo Hinduism (Ấn giáo) và tiếp tục sự nghiệp của cha ông trong lãnh vực phát triển tôn giáo Hinduism. Năm 918, vua Indravarman III quyết định tạc tượng bằng vàng cho nữ thần Bhagavati (phu nhân Shiva) để thờ phượng và tôn vinh nữ thần Bhagavati từ Yang Pu Kauthara (Thánh Mẫu Nha Trang) trở thành Yang Pu Nagara (Thánh Mẫu Vương Quốc), mà người Champa gọi là Po Ina Nagar.

Tiểu kết (Sub-Conclusion):

Từ triều đại Bhadravarman I đến triều đại Indravarman III, mặc dù tôn giáo Hinduism (Balamon) đã trở thành quốc giáo, nhưng thực chất tôn giáo này chỉ dành cho các vị vua chúa, vương tộc, vương tôn, …chứ chưa được truyền bá đến các tầng lớp thần dân, thứ dân hay dân hạ.

5.4. Champa tiếp nhận Islam

Sang triều đại vua Yang Puku Vijaya Sri (Po Allah hay Po Aluah), trị vì (998 -1006), ngài là một tín đồ Islam (Hồi giáo) trung kiên đã từng sang Makkah hành hương, hiệu Yang Puku Vijaya Sri, sắc tộc: Jarai (Jrai). Triều vương Po Aluah, trung tâm quyền lực được đặt tại kinh đô Vijaya (Đồ Bàn hay Chà Bàn). Toàn bộ vương tộc tại Indrapura (Đồng Dương) được đưa về Sri Bini (Qui Nhơn) định cư, vì địa khu Vijaya thuận lợi hơn và ít bị uy hiếp hơn khi có chiến tranh.

Vua Po Aluah (Yang Puku Vijaya Sri), là vị vua Champa đầu tiên đã tiếp nhận tôn giáo Islam (Hồi giáo) và đã từng sang Makkah hành hương. Vua Po Aluah cũng là vị vua Champa đầu tiên dời trung tâm quyền lực từ Indrapura (Đồng Dương) về đặt tại kinh đô Vijaya (Quy Nhơn).

Yang Puku Vijaya Sri: là tên chính thức theo truyền thống Champa - Ấn giáo.

Po Allah (Po Aluah): là tên Islam, sau khi vua Yang Puku Vijaya Sri tiếp nhận Islam.

Allah (tiếng Ả Rập) là danh xưng để chỉ Thượng đế hay Đấng Tạo hóa. Việc các vua Champa tiếp nhận Islam (Hồi giáo) cho thấy họ đã chính thức chấp nhận tôn giáo này, dù có thể vẫn duy trì một số nghi lễ truyền thống bản địa do thời kỳ đầu tiền Islam. Điều này không chỉ riêng ở Champa mà cả thế giới Ả Rập hay Thế giới Melayu đều giống nhau. Tại Malaysia, Islam hoàn toàn duy trì nghi lễ bản địa như ở Champa và chỉ thay đổi sau khi đảng PAS nắm quyền vào năm 1959 thì Islam tại Malaysia ngày càng hoàn thiện hơn. Cụ thể: Ở Kelantan-Malaysia vào đầu thế kỷ 20, phụ nữ vẫn chỉ che người đến phần ngực phía dưới và lộ nguyên phần ngực phía trên và đôi vai như người Thái (Thailand), người Lào (Laos), …trái hẳn với luật Hồi giáo là phụ nữ phải che kín người. Các vùng như Kelantan, Terengganu, Kedah, Patani, …cúng các lễ tục Mak Yong như Raja Praong, lễ tục cúng cho người bệnh, lễ tục cúng bảy công chúa con của thần biển, lễ tục cúng thần Yang trong lễ cắt bao quy đầu, lễ tục cúng thần yang trong lễ tục thả Diều, lễ tục cúng hồn lúa, cúng bến nước, … khi đảng Hồi giáo Liên Malaysia (PMIP; sau là PAS) lên nắm quyền thì Hồi giáo tại Malaysia được loại bỏ dần những tín ngưỡng ảnh hưởng thần linh bởi chính quyền đã dùng vũ lực dẹp bỏ các lễ tục hay tín ngưỡng trên. Từ đó Hồi giáo tại Malaysia được hoàn thiện dần Islam (Islam hiện đại). Tuy nhiên, hiện nay ở một số nơi hẻo lánh thuộc hải đảo xa xôi Indonesia, Malaysia, … các tín đồ Hồi giáo vẫn còn thực hiện một số lễ tục truyền thống như cúng thần sông, cúng bến nước, cúng thần núi, cúng hồn lúa, cúng tổ tiên, …dưới vỏ bọc của Hồi giáo (Islam).

Người Cham theo agama Awal (Hồi giáo sớm, tiền Hồi giáo), mặc dù tự nhận mình là tín đồ Islam, nhưng vẫn tiếp tục duy trì chế độ mẫu hệ và mẫu cư, một qui chế tổ chức gia đình và xã hội hoàn toàn khác với phong tục của Hồi giáo hiện đại.

Triều đại Yang Puku Vijaya Sri (Po Allah hay Po Aluah), thì tôn giáo Hinduism (Balamon) tại Champa bị khựng lại và không được truyền bá đến tầng lớp thần dân, thứ dân hay dân hạ.

Sang triều đại vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), trị vì (1285-1307), là vị vua Champa (Raja-di-raja) theo tôn giáo Islam (Hồi giáo), sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai), hoàng tử Harijit thuộc dòng họ: R'cam Mal, tiếng Melayu gọi: Che Mal, là vị vua Raja Kembayat. Sinh ra tại kinh đô Vijaya-Champa và qua đời tại Vijaya-Champa. Các vợ gồm: Hoàng hậu Bhaskaradevi (là một công chúa đến từ đảo Java (Yavadvīpa) theo Islam, con gái của vị vu tối cao người Java), thứ hậu một công chúa trở thành nữ hoàng Tapasi (theo Islam, là con gái của vị vua tại Java), và công chúa Huyền Trân (công chúa Đại Việt, con gái vua Trần Nhân Tông, em gái Trần Anh Tông, vợ thứ 3 của vua Chế Mân.

Triều đại vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), tôn giáo Hinduism bị khựng lại gần hoàn toàn và tôn giáo Islam (Hồi giáo) bắt đầu truyền bá rộng rãi đến các tầng lớp thần dân.

Sang triều đại vua Che Bunga (Chế Bồng Nga: tiếng Việt, Sultan Zainal Abidin: tên hiệu vua tiếng Malaysia, danh hiệu: Jaya Varman, theo cách gọi của tộc người Rhade và Jarai tại vùng Vijaya-Degar (Champa thượng) là R'čam B'nga hay R'cam Bunga [Jaya R'cam Bunga] (Anak Campa Bunga), trị vì (1360 -1390), là vị vua Champa (Raja-di-raja) theo tôn giáo Islam (Hồi giáo). Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai), sinh ra tại kinh đô Vijaya-Champa và qua đời năm 1390 tại Vijaya-Champa. Khi kết hôn với công chúa Siti Zubaidah người Hồi giáo thuộc tiểu bang Kelantan-Malaysia, ngài mang niên hiệu là vua: Sultan Zainal Abidin. Hoàng hậu là Siti Zubaidah (người Islam tại Kelantan-Malaysia). Hậu duệ là Chế Ma Nô Đà Nan, Chế San Nô, và công chúa Puteri Amina. Thân phụ là vua Jaya Ananda (Chế Anan). Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trong tài liệu Trung Hoa ngài có tên: Ngo-ta-Ngo-che là tên hiệu của vua thứ ba thuộc vương triều thứ 12 Vijaya.

Dưới thời Che Bunga (Chế Bồng Nga), tôn giáo Islam (Hồi giáo) trở thành quốc giáo tại Champa vào thế kỷ 14.

Tại kinh đô Vijaya-Champa, Islam là quốc giáo từ thế kỷ 14 cho đến thế kỷ 15 thời vua Maha Sajan (Maha Trà Toàn, Bàn-la Trà Toàn, Po Kabrah, Shah Pau Kubah), trị vì (1460-1471). Vua Champa (Raja-di-raja), tôn giáo Islam. Dưới thời vua Maha Sajan, kinh đô tại Vijaya-Champa hoàn toàn kết thúc vào năm 1471.

Lịch sử tôn giáo Islam (Hồi giáo) hay Hinduism (Balamon) tại Chiêm Thành (Champa) sẽ bàn đến tại một số địa khu hay tiểu bang khác như: Nam Bàn (tiểu quốc Jarai), Hoa Anh (tiểu quốc Ea Ru), Kauthara (tiểu quốc Ea Terang), và Panduranga (tiểu quốc thuộc Ninh - Bình Thuận) hay giai đoạn tự trị Thuận Thành trấn (Bal Canar).

Hình 11. Che Bunga (1360-1390) là vị vua Hồi giáo (Islam). Khi lên ngôi vua Chế Bồng Nga lấy niên hiệu là: Sultan Zainal Abidin và cưới công chúa Siti Zubaidah Kelantan-Malaysia. Theo cách gọi của tộc người Rhade và Jarai tại vùng Vijaya-Degar (Champa thượng) là R'čam B'nga hay R'cam Bunga [Jaya R'cam Bunga] (Anak Campa Bunga). Ảnh: Putra Podam.

Tại tiểu quốc Panduranga (Champa muộn), vương triều thứ 2: Bal Hanguw, các vua Po Sri Agarang (1205-1247), Po Patarsuar (1306-1328), Po Binnasuar (1328-1373) là các vua Panduranga theo tôn giáo Islam (Hồi giáo).

Quan trọng hơn, sau khi Vijaya-Champa sụp đổ vào năm 1471 (thế kỷ 15), thì tại tiểu vương Panduranga lúc đó đang đóng đô tại Bal Anguai (vương triều thứ 4), thời vua Po Parican (trị vì: 1373-1397), ông là vị vua Panduranga theo tôn giáo Islam (Hồi giáo).

Sang vương triều thứ 5 (Bal Cau), các vị vua Po Kasit (1433-1460), Po Kabrah (1460-1494), Po Kabih (1494-1530), Po Karutdrak (1530-1536), là các vị vua Panduranga theo tôn giáo Islam (Hồi giáo).

Sang vương triều thứ 6 (Bal Cau), vua Maha Sarak (1536-1541), Po Kunarai (1541-1553), Po At (1553-1579), là các vị vua Panduranga theo tôn giáo Islam (Hồi giáo).

Sang vương triều thứ 7 (Bal Canar), các vị vua Po Klong Halau (1579-1603), Po Nit hay Po Kathik Dhik (1603-1613), Po Jai Paran (1613-1618), Po Aih Khang (1618-1622), là các vị vua Panduranga theo tôn giáo Islam (Hồi giáo).

Sang vương triều thứ 8 (Bal Canar), các vua Po Klong Mah Nai hay Po Maha Taha (1622-1627), Po Rome hay Nik Mustafa hiệu Sultan Abdul Hamid Shah (1627-1651), Po Nrop (1651-1653), Po Saktiraydapaghoh (1654-1657), Po Jatamah hay Wan Muhammad mang hiệu Sultan Wan Muhammad Amin (1657-1659), Po Saot hay Wan Daim mang hiệu Raja Wan Daim (1659-1692), Po Saktiraydapatih hay Po Saktiraydaputih (1695-1727), Po Ganuhpatih hay Po Thuntiraydaputih (1730-1732), Po Rattiraydaputao (1732-1763), Po Tisundimahrai (1763-1765), Po Tisuntiraydapaghoh (1768-1780), Po Tisuntiraydapuran (1780-1781), Po Krei Brei hay Muhammad Ali, mang hiệu Muhammad Ali ibn Wan Daim (1783-1786), Po Tisuntiraydapuran làm vua lần 2(1786-1793), Po Chongchan (1796). Các đời vua thuộc vương triều thứ 8 tại Bal Canar là các vị vua Panduranga theo tôn giáo Islam (Hồi giáo).

Sang vương triều thứ 9 (Bal Canar), các vị vua:

Po Ladhuanpaghuh (1793-1799), Thuận Thành trấn vương, tôn giáo Islam (Hồi giáo).

Po Saong Nyung Ceng (1799-1822), Thuận Thành trấn vương, tôn giáo Agama Awal.

Po Bait Lan (1822), Thuận Thành trấn vương, tôn giáo Islam (Hồi giáo).

Po Klan Thu (1822-1828), Thuận Thành trấn vương, tôn giáo Agama Awal.

Po Phaok The (1828-1832), Thuận Thành trấn vương, tôn giáo Agama Awal.

Po War Palei (1834-1835), được Hội đồng Champa tôn vinh làm quốc vương Champa với chức phong là Po Patrai (quốc vương). Po War Palei, tôn giáo: Agama Awal (Hồi giáo) là gốc người Churu (Raglai) thuộc làng Cadang, là em rể của phó vương Po Dhar Kaok (Nguyễn Văn Nguyên). Mục đích tôn Po War Palei trở thành quốc vương Champa (hay Panduranga - Champa muộn) nhằm khôi phục lại vương tộc người Churu là hậu duệ Po Klong Mah Nai, Po Rome, Po Nrop, … thuộc sắc tộc người Churu.

Tiểu kết 3 (Sub-Conclusion):

Islam (Hồi giáo) đã du nhập vào Chiêm Thành (Champa) từ triều đại vua Yang Puku Vijaya Sri (Po Allah hay Po Aluah) từ thế kỷ 10 (10th century) tại Vijaya-Champa. Vua Yang Puku Vijaya Sri đã tiếp nhận Islam (Hồi giáo) và đã tạo ra một sự thay đổi tôn giáo sâu sắc trong tầng lớp thuộc vương tộc, vương tôn, từng lớp lãnh đạo và song hành cùng Hinduism (Ấn giáo).

Sau khi kinh đô Vijaya (Bắc Champa) sụp đổ vào năm 1471 (15th century), trung tâm quyền lực của Champa chuyển về tiểu quốc Panduranga (Champa muộn).

Sang thế kỷ 17, Islam (Hồi giáo) tại Panduranga (Nam Trung Bộ Việt Nam) không chỉ dừng lại ở việc du nhập mà đã trở thành một lực lượng tôn giáo xã hội có ảnh hưởng sâu sắc, đặc trưng bởi sự chấp nhận của giới quý tộc và dân chúng. Sự phát triển mạnh mẽ của Islam (Hồi giáo) là một quá trình chuyển đổi tôn giáo và chính trị quan trọng, dẫn đến sự phân hóa cộng đồng người Cham cho đến năm 1692 (Panduranga mất độc lập nhưng còn quyền tự trị hạn chế dưới dạng Thuận Thành trấn), và đến năm 1832 (Thuận Thành trấn, mất tự trị hoàn toàn, chấm dứt sự tồn tại trên bản đồ chính trị). Tuy nhiên, tiểu quốc Nam Bàn (Vijaya Degar, Vijaya thượng hay Champa thượng vẫn còn tồn tại đến thế kỷ 20).

Nếu xét về vai trò truyền thống và sự duy trì xuyên suốt thì Hinduism (Ấn giáo) là tôn giáo chính và lâu đời nhất, là nền tảng văn hóa và tín ngưỡng của dân chúng và được duy trì. Tuy nhiên, Hinduism có sự gián đoạn khi Islam trở thành quốc giáo tại kinh đô Vijaya thuộc Chiêm Thành (Champa) vào thế kỷ 14 (triều đại vua Che Bunga) và tại Panduranga cho đến khi sụp đổ hoàn toàn vào năm 1832.

Hình 12. Vua Po Rome (1627-1651). Nik Mustafa: Tên gọi tắt. Sultan Abdul Hamid Shah: Tên vị vua Po Rome sau khi lên ngôi là niên hiệu của vua Po Rome trong sử Malaysia. Nik Mustafa Bin Wan Abul Muzaffar Waliyullah là tên chính thức có danh phận thành viên của dòng dõi vương triều theo Islam tại Malaysia. Sultan Abdul Hamid Shah Bin Syarif Wan Abu Muzaffar Bin Syarif Wan Abdullah Umdatuddin: Tên đầy đủ của vị vua Po Rome sau khi lên ngôi vua. Biên niên sử Malaysia ghi lại rằng vua trị vì tại tiểu vương quốc Kelantan hôm nay là dòng giỏi của vua Po Rome. Tại Panduranga, vua Po Rome được kế thừa từ triều đại Po Klong Mah Nai (Po Mah Taha), vua Po Klong Mah Nai cũng là vị vua Panduranga thời kỳ Islam hùng mạnh. Ảnh: Putra Podam.


6. Thuật ngữ tôn giáo tại Champa

Lịch sử tôn giáo tại vương quốc Champa phản ánh quá trình giao lưu văn hóa sâu sắc giữa Ấn Độ (India) và thế giới Ả Rập, thế giới Hồi giáo và thế giới Melayu.

Theo khoa học lịch sử về tôn giáo (History of religions), từ thế kỷ II, Champa chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Hinduism (Ấn giáo) thông qua giao thương hàng hải với Nam Ấn. Các vị vua Champa sớm tiếp nhận Hindu giáo, tôn thờ thần Shiva là chính, bên cạnh Vishnu và Devi. Hệ thống tháp gạch và điêu khắc đá ở Mỹ Sơn, Po Nagar, ... là minh chứng rõ rệt cho thời kỳ Hindu giáo cực thịnh. Tôn giáo này gắn liền với vương quyền (quyền lực hoàng gia) và văn minh Ấn Độ, nghi lễ tế thần, và đời sống tinh thần của hoàng gia cùng giới quý tộc. Tôn giáo Hinduism (Ấn giáo) đã trở thành quốc giáo Champa dưới triều đại Bhadravarman I, từ thế kỷ thứ 4 kéo dài đến đầu thế kỷ 14.

Tuy nhiên, Islam (Hồi giáo) bắt đầu tạo dấu ấn từ thế kỷ 10 khi vua Yang Puku Vijaya Sri (Po Allah hay Po Aluah), trị vì (998 -1006), vị vua đầu tiên tiếp nhận Islam (Hồi giáo).

Islam (Hồi giáo) đã trở thành quốc giáo vào đầu thế kỷ 14 (1360) tại kinh đô Vijaya-Champa, dưới thời vua Che Bunga (Sultan Zainal Abidin) tại Việt Nam gọi vua Chế Bồng Nga.

Islam (Hồi giáo) đã du nhập vương quốc Champa từ trước đó, thế kỷ 15 trở đi, Champa giao lưu nhiều hơn với các thương nhân Islam (Hồi giáo) đến từ Ả Rập, Ấn Độ, và Malaysia, nhưng tại Panduranga phải đến thế kỷ 17 dưới triều Po Rome (1627-1651), tiểu quốc Panduranga (Champa muộn) có sự phát triển mạnh về văn hóa, tôn giáo. Từ thế kỷ này, Islam (Hồi giáo) trở thành tôn giáo trung tâm trong đời sống tinh thần của cộng đồng thần dân tại Panduranga.

Theo sử sách Cham và Mã Lai, vua Po Rome (Mustafa) là vị vua Islam (Hồi giáo), là bậc Hiền nhân (Wali), là người am hiểu tinh thông Thiên kinh Koran và giáo lý Islam. Người Cham theo Islam thời đó, mặc dù tự nhận mình là tín đồ Bani (tín đồ có đạo), nhưng Cham Bani vẫn tiếp tục duy trì chế độ mẫu hệ và mẫu cư, một qui chế tổ chức gia đình và xã hội hoàn toàn khác với phong tục của Islam chính thống giáo.

Po Rome là vị vua có chính sách khoan dung tôn giáo: vừa bảo hộ Hinduism (tín ngưỡng truyền thống Champa), vừa khuyến khích Islam (Hồi giáo) phát triển. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng, dẫn đến sự hòa hợp tôn giáo tại Panduranga.

Do tình hình xung đột tôn giáo trong xã hội người Cham ngày càng phức tạp, triều đại vua Po Rome (không phải do vua Po Rome) quyết định hóa giải tôn giáo thành hai thuật ngữ là Awal Ahier (Akhir), với ý nghĩa như sau:

Awal: Là người Cham (Cham Jat, Cham theo Hindu, …) đã cải đạo theo Islam từ trước, từ nhiều thế kỷ trước, từ sau thế kỷ thứ 10, nhưng vẫn tiếp nhận văn hóa bản địa Champa. Thuật ngữ Awal (gốc từ Ả Rập - Arabic) có nghĩa là “đầu tiên, sớm, trước, sơ khai” để ám chỉ cho những người Cham đã theo Islam từ trước triều đại vua Po Rome (1627-1651) và chỉ chấp nhận Po Allah Thượng đế, là Đấng Tối cao và Duy nhất.

Ahier: Là người Cham đã theo tôn giáo Hinduism (Ấn giáo: thờ thần Brahma, Vishnu, Shiva, …) từ khi lập quốc (thế kỷ 2) cho đến thế kỷ 15 khi Champa sụp đổ kinh đô Đồ Bàn (Vijaya), đây cũng là giai đoạn mà Hinduism sụp đổ hoàn toàn trên toàn Đông Nam Á, và đây cũng là cơ hội cho Islam (Hồi giáo) phát triển mạnh tại Champa. Thuật ngữ Ahier (gốc từ Ả Rập) có nghĩa là “muộn, sau, …”, để ám chỉ cho người Cham theo Hinduism trước kia thờ tam vị thần Brahma, Vishnu, Shiva, … đến thế kỷ 17 chấp nhận bỏ thờ ba vị thần trên và chấp nhận tôn thờ Po Allah (Aluah) như vị thượng đế Tối Cao. Po Allah xuất hiện trong cộng đồng Cham Ahier là Thượng đế Duy nhất, nhưng tín đồ Cham Ahier vẫn còn ảnh hưởng tín ngưỡng, văn hóa bản địa như tiếp quản và chăm sóc đền tháp Champa (trên tinh thần tôn kính, ghi ơn, ghi công, … các vị có công với dân tộc và đất nước).

Thuật ngữ Awal không làm thay đổi giá trị thực thể nội tại của Islam, mà từ Awal chỉ khẳng định thêm rằng người Cham đã theo Islam và tôn thờ Allah từ trước (nghĩa là người Cham đã theo Islam từ trước triều đại Po Rome).

Trong khi thuật ngữ Ahier (Akhir) có thay đổi giá trị nội tại trong tín đồ Cham theo Hinduism, bằng cách giai đoạn triều đại Po Rome đã hòa hợp bằng cách đưa tín đồ Cham bỏ Hinduism hoàn toàn, nghĩa là Cham Ahier (trước kia thờ Brahma, Vishnu và Shiva) nay chỉ thờ Allah của Islam như một Đấng Tối Cao. Điều này chính triều đại Po Rome đã truyền đạo Islam cho tín đồ Cham Ahier và mong sau này tín đồ Cham Ahier phải thay đổi nhận thức tôn thờ Đấng Allah để cùng tín đồ Cham Awal của Islam giải quyết mâu thuẫn, xung đột tôn giáo ở tiểu quốc Panduranga xưa.

Di sản: Cộng đồng Cham Awal (Hồi giáo sớm), Cham Ahier (Hồi giáo muộn) và Cham Islam (Hồi giáo hiện đại) là ba cộng đồng chính của người Cham tại Việt Nam, Campuchia, Thailand, Malaysia, Indonesia, Brunei, …ngày nay. Panduranga đã kế thừa di sản phức tạp từ Lâm Ấp (Lín Yí), Hoàn Vương (Huán Wáng), Chiêm Thành (Zhān Chéng) và ngay cả trong tiểu quốc Panduranga.

Lưu ý: Cần hiểu và phân biệt sự giống và khác nhau của một số khái niệm liên quan tôn giáo, như phân biệt giữa: “tôn giáo và tín ngưỡng”, giữa “văn hóa và đức tin”, …


7. Lễ hội Kate và hướng bảo tồn

Lễ Kate của người Cham là một thực thể văn hóa, tôn giáo đặc sắc, kết tinh từ quá trình giao thoa giữa Hinduism (Ấn giáo), Islam (Hồi giáo) và tín ngưỡng bản địa, dân gian Champa qua nhiều thế kỷ. Từ khi hình thành trong bối cảnh Champa cổ, Kate luôn gắn liền với đền tháp và trung tâm linh thiêng nơi con người kết nối với thần linh và tổ tiên. Trải qua thời gian, Kate không chỉ là nghi lễ tôn giáo mà còn trở thành biểu tượng tinh thần của bản sắc Champa và Cham, phản ánh sự bền bỉ của một nền văn minh từng rực rỡ bên bờ biển Đông.

Trong bối cảnh hiện đại, lễ và hội Kate ngày nay đã mở rộng phạm vi ý nghĩa, trở thành dịp tưởng niệm vua chúa, anh hùng dân tộc, người có công và tổ tiên, là những biểu tượng của lòng tri ân và niềm tự hào dân tộc Champa. Đây cũng là thời điểm người Cham ở nhiều nơi hội tụ về quê hương, cùng các cộng đồng dân tộc lân cận như Churu, Raglai, Jarai, Rhade, Haroi, … giao lưu văn hóa, thắt chặt tinh thần đoàn kết và duy trì mối liên hệ cộng đồng.

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của đời sống xã hội, lễ Kate cũng cần được tổ chức một cách khoa học, trật tự và mang tính nhân văn cao. Việc duy trì không gian linh thiêng và sự tôn nghiêm của tháp vốn là di sản lịch sử và tôn giáo cần được đặt lên hàng đầu. Nghi lễ nên được tiến hành gọn gàng, đúng quy củ, hạn chế tình trạng bày vật cúng tràn lan trong và ngoài khu vực tháp, nhằm tránh làm mất mỹ quan, ảnh hưởng đến ý nghĩa thiêng liêng và di sản văn hóa vật thể. Việc tập trung cúng tế trong không gian nội tháp, thay vì mở rộng ra sân hoặc đường, sẽ giúp phục hồi đúng tinh thần nguyên thủy của Kate, sự giao cảm giữa con người và thần linh trong không gian thiêng.

Trong bối cảnh hiện nay, Kate không chỉ là lễ hội tôn giáo, mà còn là sự kiện văn hóa, xã hội quan trọng, thể hiện bản sắc, tính cố kết cộng đồng và giá trị nhân văn của người Cham. Việc tổ chức lễ Kate hiện đại cần kết hợp bảo tồn giá trị truyền thống với quản lý văn hóa bền vững, đảm bảo vừa tôn nghiêm, vừa mang tính giáo dục và cộng đồng.

Tóm lại, Kate của Champa là minh chứng sống động cho sự tiếp nối lịch sử, sự thích nghi văn hóa và tinh thần nhân văn sâu sắc của người Cham. Việc tổ chức lễ hội Kate trong thời đại mới cần hướng đến bảo tồn di sản, củng cố bản sắc dân tộc, đề cao tinh thần đoàn kết và ý thức văn minh cộng đồng, để lễ hội Kate mãi là biểu tượng của ánh sáng, lòng tri ân, và sức sống văn hóa trường tồn của dân tộc Champa.

 

Tác giả: Ts. Putra Podam (Văn Ngọc Sáng)
Email: [email protected]

LINKs: Liên kết liên quan

1. Từ Diwali Ấn Độ đến Kate Champa - Phần 1

2. Sự thật về Po Krung Garay (Po Klong Garai)

3. Chế Bồng Nga vua liên bang thuộc kinh thành Vijaya-Degar là tộc người Raday và Jarai

4. Chế Bồng Nga và Po Binnasuar là hai nhân vật khác nhau

5. Kelantan: http://www.royalark.net/Malaysia/kelant2.htm

6. Một số tên gọi vị vua Po Rome

7. Một số hoàng hậu, thứ hậu của vua Po Rome

8.  Awal và lịch sử Islam tại Champa 

9. Video tháp Po Romé: http://youtu.be/5Gz-ccSM8rY

10. Nguồn tư liệu chính: Po Dharma, Biên niên sử Panduranga (Les Chroniques du Panduranga). Luân án phó tiến sĩ, đại học Sorbonne, Paris, 1978.