
Ấn Độ giáo hay Hindu giáo (Hinduism) mà tại Việt Nam đang dùng thuật ngữ Balamon (Bà La Môn), là một tôn giáo cổ nhất thế giới có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa, xã hội cả khu vực Nam Á và Đông Nam Á. Hinduism không có người sáng lập mà đã phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử với sự kết hợp các tín ngưỡng, nghi lễ, và triết lý của các nền văn hóa khác nhau. Tôn giáo Hinduism bắt nguồn từ nền văn minh sông Ấn khoảng 2000 -1500 TCN.
Hinduism là một tôn giáo đa thần, trong số đó bộ tam vị thần Trimurti: Brahma, Vishnu và Shiva và mỗi vị thần có vai trò quan trọng riêng trong việc tạo ra, bảo vệ và hủy diệt vũ trụ. Brahma là đấng tạo hóa, Vishnu là đấng bảo hộ và Shiva là đấng hủy diệt. Họ cùng nhau điều khiển các quy luật tự nhiên của vũ trụ và bảo vệ sự sống khỏi các ác và tai họa.
Tại Champa quốc (ꨌꩌꨛꨩ ) nói chung và tại negeri Kauthara (tiểu quốc Kauthara) nói riêng, thần Shiva (Thấp Bà: tiếng Hán, शिव Śiva: tiếng Phạn), Shiva được xem là Đấng tối cao trong giáo phái Shaiva và là một trong bộ tam vị thần Trimurti.
Hình 1. Tượng Thần Shiva, tại thánh địa Mỹ Sơn vào thế kỷ 10. Đang lưu giữ tại bảo tàng New South Wales, Australia. Ảnh: Sưu tầm.
Tóm tắt (Introduction)
Prithivindravarman, trị vì (757-770), vị vua thuộc Hoàn Vương quốc (Huánwáng), cấp quốc gia (Raja-di-raja), thuộc vương triều thứ 5 (757-854). Tôn giáo: Hinduism (tại Việt Nam ngày nay dùng thuật ngữ Balamon). Nhiều người Cham (Chàm, Chăm) cho rằng Balamon (Bà La Môn) là tôn giáo do tổ tiên người Cham (ꨌꩌ) để lại đã được Chính phủ Việt Nam cấp Danh mục tôn giáo? (Điều này hoàn toàn không đúng).
Vua Prithivindravarman là vị vua đầu tiên khởi xướng việc thờ phụng nữ thần Parvati hay Bhagavati (phu nhân của thần Shiva) biểu tượng của Ấn Độ giáo (Hinduism).
Năm (646 - 653), ngôi tháp bằng gỗ thờ nữ vương Jagaddharma, đã được vua Prithivindravarman xây dựng lại để thờ nữ thần Bhagavati trên ngọn đồi cao cạnh cửa sông Cái (Xóm Bóng), ngày nay được gọi đền Po Ina Nagar (ꨛꨯꨮ ꨁꨗ ꨗꨈꩉ) tại Nha Trang-Khánh Hòa.
Khi mới xây dựng, bimong (ꨝꨪꨟꨯꩂ: đền, tháp) được thần dân Champa (ꨌꩌꨛꨩ ) gọi tên: Yang Pu Kauthara (ꨢꩃ ꨚꨭ ꨆꨮꨭꨔꨣ : Thần Kauthara), đền thờ được công nhận di tích lịch sử cấp tiểu bang (ꨗꨮꨈꨮꨣꨪ: negeri) hay cấp tiểu khu Kauthara thuộc Pura Ea Terang (Thành Ea Trang) là địa khu do các đời vương tôn tộc người Raday (Rhade) hay Jarai (Jrai) thờ phượng.
Năm 774, người Java (một chủng tộc tại Indonesia ngày nay) từ phía Nam đã phát động một cuộc xâm lược bằng đường biển bất ngờ vào địa khu Ea Terang - Kauthara (Nha Trang - Khánh Hòa), cướp bóc các thành phố, đánh cắp báu vật và đốt cháy đền Yang Pu Kauthara. Vua Prithivindravarman đã bị quân xâm lược giết chết. Sau này ông được Champa truy tặng danh hiệu Rudraloka.
Hình 2a, 2b. Nữ thần Durga đang múa giữa hai nhạc công ở tháp chính. Parvati là phu nhân của thần Shiva, mang năng lượng nữ Shakti, là mẹ của thần voi Ganesha và thần chiến tranh Skanda. Durga là hóa thân của nữ thần Parvati, biểu trưng cho sự chiến thắng của cái thiện trước cái ác (sự chiến thắng và sự hủy diệt). Hình 1b: Putra Podam đã edit từ Hình 2a.
Indravarman III, trị vì (918-960), là vị vua Chiêm Thành quốc (nhà nước Chiêm Thành), vị vua Champa (Raja-di-raja), theo tôn giáo Hinduism (Ấn giáo) và tiếp tục sự nghiệp của cha ông trong lãnh vực phát triển tôn giáo Hinduism trở thành quốc giáo Champa. Giai đoạn này, Islam (Hồi giáo) chính thức được phổ biến trong hoàng gia thời vua Indravarman III.
Năm 918, vua Indravarman III, quyết định tạc tượng bằng vàng của nữ thần Bhagavati (phu nhân Shiva) để thờ phượng và quyết định tôn vinh nữ thần Bhagavati từ Yang Pu Kauthara (Thần cấp Kauthara), lúc này di tích chỉ được công nhận cấp tiểu bang hay cấp địa khu Kauthara. Nay được công nhận và trở thành: Yang Pu Nagara (Thần cấp Nagara), di tích đã được công nhận thành cấp quốc gia (Nagar, nagara).
Phân tích: Hành động một vị vua Champa gốc miền Bắc (Vijaya hay Degar Vijaya) đã dâng một phẩm vật nữ thần Bhagavati cho đất thánh Kauthara ở phía Nam là thể hiện màu sắc chính trị hơn lòng tin tôn giáo. Bởi vì, vua Indravarman III muốn dựa vào thế lực tôn giáo để xây dựng một quốc gia Champa thống nhất, hùng mạnh, vì các tiểu vương quốc ở miền Nam như Panduranga (Ninh Thuận, Bình Thuận, một phần Lâm đồng) thường muốn tách riêng để tự trị. Thời ấy, vương triều tại Panduranga được xem là một địa khu rất cứng đầu, manh nha, phản động, một tiểu bang ít hợp tác với liên bang Champa tại Vijaya để chống kể thù. Bên cạnh đó, vua Indravarman III còn phải đối phó trước mối bang giao với vương triều Angkor (Kampuja) ngày càng gay gắt.
--->
Vậy từ, Yang Pu Kauthara (Thần Kauthara) đã được phong tặng thành, Yang Pu Nagara (Thần Nagara hay thần Champa quốc).
Về sau, Yang Pu Nagara, được viết thành: Yang Pu Ina Nagar, hay Po Ina Nagar hay Po Ana Nagar (Thánh mẫu vương quốc Champa), do tính linh thiêng của nữ thần Parvati vào giai đoạn đó.
Tên: Yang Pu Nagar, Po Ina Nagar, Po Ana Nagar,... là danh hiệu của nữ thần Bhagavati (tức Yang Pu Nagara - Thánh Mẫu Vương Quốc), mà ngày nay thường gọi: Po Ina Nagar (ꨛꨯꨮ ꨁꨗ ꨗꨈꩉ).
--->
Giải thích thuật ngữ: Po Ina Nagar (ꨛꨯꨮ ꨁꨗ ꨗꨈꩉ).
- Po (ꨛꨯꨮ): Phiên ngữ là "thiên";
- Ina (ꨁꨗ), Ana (ꨀꨗ): phiên ngữ là "mẹ, cái, lớn";
- Nagar (ꨗꨈꩉ): phiên chữ từ "Nagara" là quốc gia, vương quốc.
Do đó: Po Ina Nagar, được người Việt phiên âm và phiên ngữ thành: Thiên Y A Na.
Ngày nay, Po Ina Nagar: Được người Việt gọi với nhiều tên khác nhau: Thiên Y A Na, Thiên Ya Na, Thiên Y Thánh Mẫu, Bà chúa Tiên, Thiên Y A Na Ngọc Diễn Phi, ...
--->
Lời nhắc: Po Ina Nagar, không phải tên của nữ thần Bhagavati, mà là danh hiệu hay chức phong của nữ thần Bhagavati (Parvati) là phu nhân của nam thần Shiva (Hinduism).
--->
Một vài người thêu dệt cho rằng Po Ina Nagar là nữ thần của dân tộc Cham bản địa, người đã từng dạy dân tộc Cham (Chàm, Cham) cách dệt vải, kéo sợi, thêu thùa,.. đây chỉ là những câu chuyện hoang đường, hay tiểu thuyết chưa đặt tên, hay do ai đó tự vẽ để nâng tầm cho thần dân Chàm và Chàmpa mất nước.
--->
Năm 945, Champa quốc trở thành quốc gia giàu có và thịnh vượng. Vì thấy Champa ngày càng hùng mạnh và ảnh hưởng càng sâu rộng ở Đông Nam Á. Năm 946, vua Khmer là Rajendravarman II (944 - 968) cùng binh lính từ Angkor đánh thẳng vào Kauthara - Champa (Ea Terang - Nha Trang), cướp nhiều châu báu trong đó có tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng (Bhagavati là nữ thần Yang Pu Nagara, là vị thần bảo vệ xứ sở, biểu tượng uy quyền của Champa).
Sau đó, đạo quân Degar Vijaya (vùng Vijaya Ngaok Glaong hay Cao Nguyên Champa) từ miền bắc cùng lực lượng Champa vùng dậy phản công, đánh bại và đẩy lùi đoàn quân Khmer (Angkor).
--->
Vua Jaya Indravarman I, trị vì (961-971). Vị vua Chiêm Thành (Raja-di-raja), theo tôn giáo: Hinduism. Năm 960, vua cha Indravarman III từ trần, con trai là Jaya Indravarman I lên kế vị vào năm 961.
Năm 965, vua Jaya Indravarman I, phải tạc tượng của nữ thần Bhagavati (Ea Terang - Kauthara) bằng đá hoa cương để thay thế cho tượng nữ thần bằng kim vàng do vua Khmer là Rajendravarman II từ Angkor tiến đánh Kauthara và cướp đi vào năm 946.
Tượng nữ thần Bhagavati (Parvati), ở địa khu Ea Terang - Kauthara (Nha Trang- Khánh Hòa) bằng đá hoa cương còn lưu lại cho đến ngày nay tại quần thể đền tháp Nha Trang - Khánh Hòa.
TÌM HIỂU NỮ THẦN PARVATI ĐƯỢC TÔN VINH TẠI CHAMPA
Từ khi Champa độc lập vào năm 192 thế kỷ II, thời kỳ vàng son nhất của nền văn minh Ấn Ðộ giáo cho đến thời kỳ suy tàn hoàn toàn vào năm 1471 thế kỷ XV, thì Champa rất sùng bái tam thần giáo của Hindu giáo như: Brahma, Vishnu và Shiva. Tùy theo từng thời kỳ và từng khu vực mà sự sùng bái các vị thần này khác nhau. Nói chung, tại địa khu Panduranga, thần Shiva được sùng bái hơn so với hai vị thần Brahma và Vishnu. Ða số các đền tháp nằm rải rác ở miền trung Việt Nam là những nơi thờ phượng thần Shiva.
Khi nam thần Shiva được sùng bái nhất ở Champa quốc thì kéo theo phu nhân của Shiva là Bhagavati (Parvati) cũng được sùng bái và tôn thờ. Khi Champa quốc xây nhiều đền tháp cho nam thần Shiva thì cũng xây đền tháp cho nữ thần Bhagavati (Parvati).
Bimong Po Ina Nagar (Ea Terang - Kauthara tại Nha Trang - Khánh Hòa) là cụm đền tháp có thờ nữ thần Bhagavati. Đây không phải là Tháp dành riêng cho nữ thần Bhagavati (Parvati) mà còn thờ ba vị Nam thần khác là: Shandhaka, Gansha Sri Vinayaka và Sri Malada-Kuthara.
Hình 3. Nữ thần Parvati (Bhagavati) bức tượng do vua Jaya Indravarman I, vua giai đoạn triều vương Chiêm Thành (ZhanCheng), tạc tượng của nữ thần Bhagavati (Nha Trang) bằng đá hoa cương vào năm 965, để thay thế cho tượng nữ thần bằng kim vàng do vua Khmer là Rajendravarman II từ Angkor tiến đánh Kauthara và cướp đi vào năm 946. Po Ina Nagar là danh hiệu của nữ thần Bhagavati - Parvati (phu nhân Đấng Shiva), tức Yang Pu Nagara (Thánh Mẫu Vương Quốc). Ảnh: Putra Podam.
Hình 4. Tượng thần Shiva, di tích tháp Yang Mum - Jarai -Vijaya - Champa, niên đại khoảng thế kỷ 14, đang trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Champa Đà Nẵng. Ảnh: Sưu tầm.
Hình 5. Tượng thần Parvati (Durga), tại Champa vào thế kỷ 10. Parvati không phải vị thần khai quốc Champa. Nữ thần Parvati là phu nhân của nam thần Shiva, khi Champa tôn sùng Shiva thì cũng tôn sùng nữ thần Parvati. Ảnh: Sưu tầm.
Isanavarman (Daughter of Kandarpadharma), trị vì (646-653), là hoàng hậu cai trị Champa theo tôn giáo Hinduism. Sau khi vua Bhadresvaravarman bị triều thần lật đổ vào năm 646, thì công chúa Tchou Koti, con gái chánh phi của vua Kandarpadharma (Phạm Đầu Lê), và là em gái của vua Jaya Prabhasadharma (Phạm Trấn Long), phong làm nữ vương trị vì của Champa vào năm 646, hiệu Jagaddharma. Đức độ của bà Jagaddharma rất được dân chúng kính trọng. Sau khi qua đời, nữ vương Jagaddharma được dân chúng lập đền bằng gỗ để thờ Jagaddharma (đền thờ gỗ của Jagaddharma nay được thay thế bởi tháp Po Ina Nagar (Ea Terang - Nha Trang).
Prithivindravarman là vua đầu tiên khởi xướng việc thờ phụng nữ thần Bhagavati (phu nhân của thần Shiva) biểu tượng của Ấn Độ giáo (Hinduism). Năm (646-653), ngôi tháp bằng gỗ thờ nữ vương Jagaddharma, đã được vua Prithivindravarman xây dựng lại để thờ nữ thần Bhagavati trên ngọn đồi cao cạnh cửa sông Cái (Xóm Bóng), ngày nay được gọi đền Po Ina Nagar tại Kauthara (Khánh Hòa).
Dưới thời Prithivindravarman, văn minh và văn hóa Ấn giáo, tiếng Phạn được phổ biến rộng rãi trong giới vương quyền và các nơi thờ phụng. Giai đoạn này Champa thịnh vượng phát triển đạt đỉnh cao về nghệ thuật, văn học và sự ổn định. Các thành phố cảng Champa thống trị các tuyến thương mại hàng hải qua Biển Đông, từ Ấn Độ, Trung Đông, đến Đông Nam Á và đến nhà Đường, Trung Quốc. Al-Masudi mô tả các tàu chở hàng từ Basra, Siraf, Oman, Ấn Độ, các đảo Zabaj và Sanf đã đến cửa sông Khanfu (thành phố cảng Quảng Châu) ở Trung Quốc. Đó là các thành phố cảng Champa của Amaravati (Châu Sa), Simhapura (Trà Kiệu), Hội An, đảo Lý Sơn và Panduranga nơi đã tìm thấy số lượng lớn đồ gốm Islam (Hồi giáo) và đồng dinar Ả Rập có niên đại từ thế kỷ 7-10 sau Công nguyên.
Năm 774, người Java từ phía Nam đã phát động một cuộc xâm lược bằng đường biển bất ngờ vào Ea Terang - Kauthara (Nha Trang - Khánh Hòa), cướp bóc các thành phố, đánh cắp báu vật và đốt cháy đền Yang Pu Kauthara. Prithivindravarman đã bị quân xâm lược giết chết. Sau này ông được truy tặng danh hiệu Rudraloka.
Satyavarma là cháu trai (con trai của chị gái) của vua Prithindravarman, trị vì (770-787), là vị vua Hoàn Vương (Raja-di-raja), theo tôn giáo Hinduism. Tên hiệu: Sri Satyavarman, sau này ông được truy tặng danh hiệu Isvaraloka. Sinh ra tại Kauthara và qua đời năm 787 tại Ea Terang - Kauthara.
Satyavarma, là người sáng lập một triều đại tập trung về phía Nam của Champa. Năm 774, quân Java tấn công vào Kauthara cướp bóc trong các thành phố, đánh cắp báu vật trong đền Yang Pu Kauthara và đốt tượng thần Shiva, vua Prithivindravarman đã bị quân xâm lược giết chết. Vua Satyavarman cùng hoàng tộc chạy lên miền bắc (Vijaya hay Degar Vijaya) lánh nạn. Tại địa khu này, vua được người Degar Vijaya, người Tây Nguyên (người Thượng như Jarai, Rhade, Mnong, Kaho, Stieng, Bahnar, Hre, …), giúp thành lập một đạo quân hùng mạnh tiến xuống Kauthara tấn công và đẩy lui quân Java.
Năm 784, vị vua Satyavarman quyết định xây trung tâm tín ngưỡng Ấn Giáo bằng gạch có đền đài hùng tráng để thờ thần Shiva và phu nhân Bhagavati. Nữ thần Bhagavati được tôn chức là Yang Pu Kauthara, tức là Thánh Mẫu của tiểu vương quốc Kauthara (Khánh Hòa).
Sang giai đoạn triều vương Chiêm Thành (ZhanCheng) bắt đầu từ năm 859 và kết thúc năm 1471.
Indravarman III (Xà-da Nhân-đức-man), trị vì (918-960), là con trai của vua Bhadravarman II. Vị vua Champa (Raja-di-raja), theo tôn giáo Hinduism (Ấn giáo) và tiếp tục sự nghiệp của cha ông trong lãnh vực phát triển tôn giáo Hinduism trở thành quốc giáo.
Năm 918, vua Indravarman III, quyết định tạc tượng bằng vàng của nữ thần Bhagavati (phu nhân Shiva) để thờ phượng và quyết định tôn vinh nữ thần Bhagavati từ Yang Pu Kauthara (Thần cấp Kauthara), lúc này di tích chỉ được công nhận cấp tiểu bang hay cấp địa khu Kauthara. Nay được công nhận và trở thành: Yang Pu Nagara (Thần cấp Nagara), di tích đã được công nhận thành cấp quốc gia (Nagar, nagara).
Hành động một vị vua Champa gốc miền Bắc (Vijaya hay Degar Vijaya) đã dâng một phẩm vật nữ thần Bhagavati cho đất thánh Kauthara ở phía Nam là thể hiện màu sắc chính trị hơn lòng tin tôn giáo. Bởi vì, vua Indravarman III muốn dựa vào thế lực tôn giáo để xây dựng một quốc gia Champa thống nhất, hùng mạnh, vì các tiểu vương quốc ở miền Nam như Panduranga (Ninh Thuận, Bình Thuận, một phần Lâm đồng) thường muốn tách riêng để tự trị. Thời ấy, vương triều tại Panduranga được xem là một địa khu rất cứng đầu, manh nha, phản động, một tiểu bang ít hợp tác với liên bang Champa tại Vijaya để chống kể thù. Bên cạnh đó, vua Indravarman III còn phải đối phó trước mối bang giao với vương triều Angkor (Kampuja) ngày càng gay gắt.
Năm 920, một số gia đình thuộc hoàng tộc người Melayu gốc Nam Đảo như Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqid Amr Ali đã trốn chạy khỏi chính sách cai trị khắc nghiệt của tiểu vương Java, được tể tướng Champa là Po Klung Pilih Rajadvara nhận tị nạn. Từ đó, Islam (Hồi giáo) chính thức được phổ biến trong chốn hoàng gia Champa thời vua Indravarman III.
Qua một thời gian ngắn, tôn giáo Islam (Hồi giáo) được đông đảo quần chúng Champa tin theo và cải đạo từ Hinduism sang Islam. Nhân cơ hội, những gia đình quí tộc tị nạn này truyền bá nền văn minh và văn hóa Nam Đảo, đặc biệt là lối kiến trúc và cách điêu khắc cho nghệ nhân Champa. Cũng giai đoạn này, thần dân Champa đã nắm vững kỹ thuật đi biển, biết cách giao lưu buôn bán, giao hảo tốt với các quốc gia lân bang như Trung Hoa và Java. Đây là thời kỳ đầu tiên cũng như sớm nhất tôn giáo Islam được truyền bá vào Champa và trong chốn hoàng gia triều đại vua Indravarman III.
Năm 945, Champa trở thành quốc gia giàu có và thịnh vượng. Vì thấy Champa ngày càng hùng mạnh và ảnh hưởng càng rộng ở Đông Nam Á. Năm 946, vua Khmer là Rajendravarman II (944 - 968) cùng binh lính từ Angkor đánh thẳng vào Kauthara - Champa (Ea Terang - Nha Trang), cướp nhiều châu báu trong đó có tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng (Bhagavati là nữ thần Yang Pu Nagara, là vị thần bảo vệ xứ sở, biểu tượng uy quyền của Champa). Sau đó, đạo quân Degar Vijaya (vùng Cao Nguyên) từ miền bắc cùng lực lượng Champa vùng dậy phản công, đánh bại và đẩy lùi đoàn quân Khmer. Một năm sau, vua Indravarman III tìm cách tái lập lại mối quan hệ ngoại giao với Trung Hoa.
Hình 6. Rajendravarman II (944 - 968), vua đế chế Khmer lần đầu tiên trong lịch sử đưa quân đội từ Angkor đánh thẳng vào Kauthara-Champa năm 946 và cướp nhiều châu báu trong đó có tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng (Bhagavati là nữ thần Yang Pu Nagara). Ảnh: Kings and Things.
Jaya Indravarman I (Dịch-lợi Nhân-di-bàn), trị vì (961-971). Vị vua Chiêm Thành (Raja-di-raja), theo tôn giáo Hinduism. Năm 960, vua cha Indravarman III từ trần, con trai là Jaya Indravarman I lên kế vị vào năm 961.
Năm 965, vua Jaya Indravarman I phải tạc tượng của nữ thần Bhagavati (Ea Terang) bằng đá hoa cương để thay thế cho tượng nữ thần bằng kim vàng do vua Khmer là Rajendravarman II từ Angkor tiến đánh Kauthara và cướp đi vào năm 946. Tượng của nữ thần Bhagavati (Nha Trang) bằng đá hoa cương còn lưu lại cho đến ngày nay tại quần thể đền tháp Nha Trang (Po Ina Nagar).
Hình 7. Bimong Po Ina Nagar - Ea Terang (Nha Trang). Đây không phải là Bimong dành riêng cho nữ thần Po Ina Nagar (Thánh mẫu Vương quốc) mà còn thờ 3 vị Nam thần khác là: Shandhaka, Gansha Sri Vinayaka và Sri Malada-Kuthara. Ảnh: Putra Podam.
Dưới thời Jaya Indravarman I, biến cố quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn vong của vương quốc Champa là sự hình thành một vương quốc Đại Cồ Việt độc lập phía bắc vào khảng năm 968 sau khi Đinh Tiên Hoàng (968-979) tên húy là Đinh Bộ Lĩnh, đánh dẹp loạn 12 sứ quân, giải phóng ách đô hộ của Trung Hoa thống nhất vùng châu thổ phía Bắc, hình thành quốc gia độc lập nằm trong vùng châu thổ sông Hồng Hà và tỉnh Thanh Hóa. Thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời Bắc thuộc. Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền.
Jaya Indravarman I là vị vua đầu tiên của vương quốc Champa nguy cơ đối diện trực tiếp với quốc gia láng giềng miền bắc Đại Cồ Việt.
Trước kia tại bimong Po Ina Nagar, thần dân Champa (Champa là quốc gia đa chủng tộc, người Cham là một thần dân trong vương quốc Champa) thường lên làm một số lễ tục liên quan đến tôn giáo như cầu nguyện, cầu phước, cầu an, ... Sau này vì lý do chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh vào năm 1771, và quân Tây Sơn chiếm thánh địa Nha Trang, từ đó thần dân Champa không ai ra Nha Trang để làm lễ tục và thăm đền tháp Po Ina Nagar nữa. Từ lý do trên, vua Panduranga quyết định xây đền mới và rước nữ thần Bhagavati về thờ tại làng Hữu Ðức - Phan Rang.
Ngoài thánh địa Nha Trang thờ nữ thần Bhagavati, thì còn có bimong tháp Nhạn ở Tuy Hòa-Phú Yên, và một số danaok (đền) nhỏ khác thờ bà tại vùng Ninh Thuận và Bình Thuận như:
Po Ina Nagar Hamu Ak (Vụ Bổn - Ninh Thuận),
Po Ina Nagar Hamu Kut (Bỉnh Nghĩa - Ninh Thuận),
Po Ina Nagar Hamu Marau (Ninh Thuận),
Po Ina Nagar Hamu Parik (Phan Rí - Bình Thuận),
Po Ina Nagar Hamu Pajai (Sông Lòng Sông - Bình Thuận), …
Lời kết: Qua những minh chứng và lý giải ở trên, khẳng định:
Po Ina Nagar không phải là tên gọi của nữ thần mà là chức phong của nữ thần. Tên thật của nữ thần là Bhagavati (phu nhân của Đấng Shiva - vị Nam thần được tôn thờ nhất tại vương quốc Champa).
Po Ina Nagar là danh hiệu của nữ thần Bhagavati (phu nhân của Đấng Shiva) nằm trong hệ thống nữ thần Ấn Độ giáo chứ không phải nữ thần của người Champa bản địa.
Po Ina Nagar là danh hiệu của nữ thần Bhagavati (tức Yang Pu Nagara - Thánh Mẫu Vương Quốc - di tích lịch sử cấp Quốc gia), thay vì trước đó chỉ phong tước (Yang Pu Kauthara - Thánh Mẫu Kauthara - di tích lịch sử cấp tỉnh Khánh Hòa).
---> Champa độc lập từ thế kỷ thứ II và ảnh hưởng Ấn Độ giáo có thể từ thời điểm đó, nghĩa là Nam thần Shiva và phu nhân Bhagavati chỉ có thể thờ phượng ở Champa sớm nhất kể từ thế kỷ II.
Hình 8. Tháp Nhạn (Ea Ru - Phú Yên), thờ nữ thần Bhagavati (phu nhân Đấng Shiva), tức Yang Pu Nagara (Thánh Mẫu Vương Quốc). Ảnh: Putra Podam.
Hình 9. Nữ thần Bhagavati (phu nhân Đấng Shiva), tức Yang Pu Nagara (Thánh Mẫu Vương Quốc), được thờ bên trong tháp Nhạn.
Hình 10. Đền thờ Po Ina Nagar tại làng Hữu Đức (Hamu Tanran - Ninh Thuận).
THẦN SHIVA TẠICHAMPA
Hình 11. Tượng thần Shiva thuộc Tháp Bánh Ít (sa thạch), thế kỷ 11-12, hiện đang tại bảo tàng bt Guimet. Ảnh: Sưu tầm.
Hình 12. Tượng thần Shiva, phế tích tháp Drang Lai, Jarai, thế kỷ 14-15. Hiện đang trưng bày tại bảo tàng nghệ thuật Boston, Hoa kỳ. Ảnh: Sưu tầm.
Hình 13. Tượng Thần Shiva, tại thánh địa Mỹ Sơn vào thế kỷ 10. Đang lưu giữ tại bảo tàng New South Wales, Australia. Ảnh: Sưu tầm.
Hình 14. Tượng thần Shiva, di tích tháp Yang Mum - Jarai -Vijaya - Champa, niên đại khoảng thế kỷ 14, đang trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Champa Đà Nẵng. Ảnh: Sưu tầm.
Hình 15. Tượng thần Shiva tại phế tích tháp Yang Mum - Jarai, bằng Sa thạch vào thế kỷ 14-15. Ảnh: Sưu tầm.
Hình 16. Tượng thần Shiva tại Đại Hữu, bằng sa thạch vào thế kỷ 14. Ảnh: Sưu tầm.
Hình 17. Tượng thần Shiva tư thế múa, thế kỷ 10 tại bảo tàng Đà Nẵng. Ảnh: Sưu tầm.
Hình 18. Phù điêu tympan thần Shiva thuộc tháp D1, Mỹ Sơn, tk 13. Ảnh: Sưu tầm.
Hình 19. Thần Shiva, tu sĩ khổ hạnh bằng sa thạch vào thế kỷ 14. Hiện được thờ tại chùa Linh Sơn, Qui Nhơn, Bình Định. Ảnh: Sưu tầm.
Hình 20. Kosa thần Shiva tại Phú Long, Quảng Nam, bằng vàng vào thê skyr 10. Ảnh: Sưu tầm.
Theo hồ sơ khoa học, đầu tượng thần Shiva được tìm thấy vào ngày 23-7-1997. Cụ thể, trong khi đào tìm phế liệu, anh Nguyễn Văn Nông, ở thôn Phú Long, xã Đại Thắng, huyện Đại Lộc (Quảng Nam) đã phát hiện được một đầu tượng bằng vàng.
Qua giám định, các nhà khoa học khẳng định đây là một tác phẩm với nghệ thuật chế tác độc đáo có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ X. Đầu tượng cao 24cm, bề ngang chỗ rộng nhất là 11,3cm, trọng lượng nặng 0,58kg. Đầu tóc Shiva được kết thành nhiều lọn nhỏ, cuộn thành một búi tóc với 3 chuỗi tóc tết nằm ngang siết chặt, chóp tóc tách thành 4 múi lật về phía sau. Phần chóp tóc được chế tác rời, sau đó, gắn vào đỉnh đầu bằng các đường chẻ lật vào bên trong đầu. Trên trán nổi rõ những đường cong chân tóc và những đường song song của các chuỗi tóc tết.
Phần đầu tượng thần Shiva vươn về phía trước, cổ cao và hằn rõ ba ngấn, cong về phía sau, phần cuối cổ loe ra, tạo thành một vành rộng, trên vành có 4 lỗ hình chữ nhật (7mm x 4mm), có lẽ để gắn đầu tượng vào một vật khác. Hai mắt thần Shiva hình khuy áo, giữa trán thần Shiva có con mắt thứ ba, cả ba con mắt đều thể hiện con ngươi và đồng tử rõ ràng, hai hàng lông mày mỏng giao nhau ở giữa trán. Mũi thẳng và cao, cánh mũi hẹp, hàng ria mép rậm, hơi vểnh lên ở đầu mút. Miệng thần mỉm cười, đôi môi mỏng. Hai tai có xâu lỗ thành một đường rãnh, có lẽ để đeo một khuyên tai lớn như trên các pho tượng Chăm thường thấy.
Trên cổ tượng thần Shiva có một lớp phủ màu cánh gián, đây là một lớp màu phủ bên ngoài chứ không phải lớp phong hóa. Đầu tượng thần Shiva được chế tác rỗng, bên trong có những vết nổi rất rõ, tương ứng với các đường chạm lõm bên ngoài, cho thấy đầu tượng thần Shiva được chế tác bằng phương pháp gò hàn. Những chi tiết trên gương mặt thần Shiva được thể hiện rất tinh tế, chứng tỏ xưa kia người Chăm đã đạt được một trình độ khá cao trong nghệ thuật kim hoàn. Đây là một trong những tác phẩm hiếm hoi được biết đến trong nghệ thuật Chăm. (Trần Mưng).
GIỚI THIỆU ĐẢO HÒN BÀ (Thánh Mẫu Thiên Y A Na) TẠI THỊ XÃ LA GI
Hòn Bà là một hòn đảo nhỏ nằm ngoài biển khơi, cách bờ khoảng 2km, thuộc phường Bình Tân, thị xã La Gi, khoảng từ thế kỷ XVII trở về trước, người Cham xây dựng đền thờ và thờ phụng Thánh Mẫu Thiên Ya Na (Po Ina Nagar) hàng năm ở đảo.
Hình 21. Đảo Hòn Bà nhìn từ bờ - TX. La Gi. Ảnh: Sưu tầm
Sau khi người Cham di chuyển làng xóm đến nơi khác và không còn thờ phụng nữa, người Việt ở khu vực này đã kịp thời tiếp quản và tu bổ tôn tạo lại đền thờ, tiếp tục thờ phụng Thiên Ya Na theo phong cách của dân tộc mình từ hàng trăm năm nay.
Cùng với thắng cảnh Hòn Bà là những truyền thuyết mang đầy tính tâm linh huyền thoại về Thánh Mẫu Thiên Ya Na. Sự linh hiển cũng như đức tính nhân hậu của vị Thánh Mẫu được thờ ở đây thông qua thần tích của người Cham đã khiến cho người Việt dễ dàng tiếp thu tín ngưỡng này vào trong đời sống tâm linh tín ngưỡng và văn hóa của mình.
Hình 22. Đảo Hòn Bà Thị Xã Lagi.
Do vậy việc thờ phụng Thánh Mẫu Thiên Ya Na liên tục được thực hiện ở đây, dù cho bom đạn của chiến tranh có lúc làm cho đền thờ sụp đổ hoàn toàn, sau đó người dân lại góp công của tu bổ tôn tạo lại.
Các đền thờ Thánh Mẫu Thiên Ya Na ở Bình Thuận có những ngày vía bà khác nhau, riêng đền thờ Thiên Ya Na ở đảo Hòn Bà phường Bình Tân thị xã La Gi lại có ngày vía bà trùng khớp ngày vía nữ thần Thiên Ya Na ở tháp Bà Po Ina Nagar (được tổ chức từ ngày 21 đến 23/3 âm lịch hàng năm).
Hình 23. Đền thờ Bà Thiên Ya NA tại đảo Hòn Bà. Ảnh: Sưu tầm.
Từ hàng chục năm nay, việc tu bổ, tôn tạo và thờ cúng cũng như thực hiện các lễ nghi, lễ hội ở Hòn Bà của người dân được thực hiện một cách tự phát mà ít có sự quan tâm của chính quyền địa phương, nên các hạng mục kiến trúc ở đây khá lộn xộn giữa cũ và mới. Thậm chí từ việc chỉ thờ Thánh Mẫu Thiên Ya Na trên đảo với duy nhất một đền thờ bà, người ta đã tự ý dựng lên đỉnh Hòn Bà một tượng Phật bà Quan Âm, bên cạnh đền thờ Thánh Mẫu Thiên Ya Na.
Cũng vì không có nguồn kinh phí nào đáng kể, chủ yếu là sự đóng góp của du khách và nhân dân địa phương nhưng rất ít ỏi, do phương tiện chở người ra đảo không đủ chuẩn, nên Đồn biên phòng ở đây không cho dân và du khách ra đảo, dù rất gần bờ. Lý do là cũng vào ngày vía bà 23/3 âm lịch năm 1986 xảy ra một vụ lật ghe, do mắc cạn nên ghe nghiêng một bên làm chết mấy chục người tại cửa biển. Do vậy từ đó đến nay rất hạn chế cho bà con ra đảo, kể cả với du khách.
Hình 24. Đền thờ Bà Thiên Ya Na tại đảo Hòn Bà. Ảnh: Sưu tầm.
Cho đến mấy năm gần đây, những khi có việc ra đảo Hòn Bà, dù đã có công lệnh nhưng chúng tôi đều phải lập danh sách báo với Đồn biên phòng mới được đi. Làm việc với các cụ già quản lý đền thờ trên đảo, các cụ mong làm sao chính quyền địa phương sớm cho bà con và du khách tự do ra đảo để họ viếng Bà và thỏa mãn về tâm linh tín ngưỡng, …
Trao đổi vấn đề này với một số lãnh đạo ở địa phương, được biết lý do của Đồn biên phòng là không có ghe đủ chuẩn để chở nhân dân và du khách ra đảo, bất kể mùa nào trong năm. Thật tiếc là vào mùa này biển êm như nước trong hồ, đảo lại rất gần, nhưng hàng trăm du khách các nơi đến dự lễ vía Bà năm nay đều không được ra đảo, chỉ ở trong bờ nhìn ra, kể cả một số người Cham từ các nơi đến phải quay về. Nghe người dân ở đây nói, doanh nghiệp Ba Thật ở thị xã La Gi đang có ý tưởng đóng một chiếc ghe lớn đủ chuẩn để đưa bà con và du khách ra đảo viếng Bà và tham quan Hòn Bà trong một vài năm tới.
-----***-----
LINKS: Yang Pu Nagara - Po Ina Nagar