Một số hoàng hậu, thứ hậu của vua Po Rome

Written by Putra Podam
In category Nghiên cứu
Jun 19, 2023, 7:34 PM

Po Klong Mah Nai (trị vì: 1622-1627), vị vua theo Hồi giáo (Islam) là vị vua rất sùng bái Islam, niên hiệu theo Champa Hồi giáo: Po Mah Taha. Theo biên niên sử Champa Sakkarai dak rai patao, thì Po Mah Taha lên ngôi năm Tuất, thoái vị năm Thỏ, trị vì 6 năm, đóng đô ở Bal Canar (Panrik - Panduranga). Theo Hán Việt thì Po Mah Taha có tên là Bà Khắc-lượng Như-lai. Po Klong Mah Nai truyền ngôi vua cho vua Po Rome (1627-1651).

Đền vua Po Klong Mah Nai được xây dựng trên đồi cát gần Palei Pabah Rabaong (thôn Mai Lãnh, xã Phan Thanh) tiếp giáp thôn Lương Bình, xã Lương Sơn cách ủy ban huyện Bắc Bình khoảng 15km và thành phố Phan Thiết khoảng 50km.  Theo H. Parmentier (Monuments chams de l'Annam, Public. EFEO, Paris, tập 1, 1909, tr. 38), Po Klong Mah Nai là tên gọi của vua Po Mah Taha, tức là cha vợ của vua Po Rome (1627-1651). Đền của Po Klong Mah Nai là nơi tôn kính vua Po Mah Taha và vương phi Bia Som cùng với vợ thứ khác mà người Cham vào thời điểm đó không biết là ai.

Hình 1. Po Klong Mah Nai (trị vì: 1622-1627), vị vua theo Hồi giáo (Islam) là vị vua rất sùng bái Islam, niên hiệu: Po Mah Taha. Theo biên niên sử Champa Sakkarai dak rai patao, Ngài lên ngôi năm Tuất, thoái vị năm Thỏ, trị vì 6 năm, đóng đô ở Bal Canar (Panrik - Panduranga). Đền vua Po Klong Mah Nai được xây dựng trên đồi cát gần Palei Pabah Rabaong (thôn Mai Lãnh, xã Phan Thanh) tiếp giáp thôn Lương Bình, xã Lương Sơn cách ủy ban huyện Bắc Bình khoảng 15km và thành phố Phan Thiết khoảng 50km.  Theo H. Parmentier (Monuments chams de l'Annam, Public. EFEO, Paris, tập 1, 1909, tr. 38), Po Klong Mah Nai là tên gọi của vua Po Mah Taha, tức là cha vợ của vua Po Rome (1627-1651). Đền của Po Klong Mah Nai là nơi tôn kính vua Po Mah Taha và vương phi Bia Som cùng với vợ thứ khác mà người Cham vào thời điểm đó không biết là ai. Ảnh: Putra Podam.

Po Rome vua Panduranga-Champa (tiểu quốc Panduranga) trị vì từ năm 1627 đến năm 1651, là con rể của Po Klong Mah Nai (Po Mah Taha). Po Rome là vị vua Hồi giáo (Islam), ngài đã cưới nhiều người vợ như: Bia Sucih (H'bia Than Cih), Bia Than Can (H'bia Than Can), Bia Puteri Siti, Bia Ut (Công nữ Ngọc Khoa), Bia Laku Makam, Bia Hatri, Bia Sumut ... và một số thứ phi khác.

Hình 2. Vua Po Rome (Che Rome, Nik Mustafa, Sultan Abdul Hamid Shah, Nik Mustafa Bin Wan Abul Muzaffar Waliyullah). Po Rome (trị vì: 1627-1651), là một vị vua Panduranga-Champa theo Hồi giáo (Islam), kế thừa từ triều đại Po Klong Mah Nai (Po Mah Taha) cũng là một vị vua Champa Islam hùng mạnh. Trong thời gian Po Rome ở Makkah, người Malay gọi là Serembi Makkah, tức là tiểu vương quốc Kelatan (Malaysia). Tại đây, Po Rome kết hôn với công chúa Islam là Puteri Siti (Công chúa Siti). Chính thức là người có danh phận là thành viên của dòng dõi vương triều theo Islam tại Malaysia. Biên niên sử Malaysia ghi lại rằng vua trị vì tại tiểu vương quốc Kelantan hôm nay là dòng giỏi của vua Po Rome. Ảnh: Putra Podam. 

Cuộc đời và sự nghiệp của Po Rome là một câu chuyện vừa bi, vừa tráng cũng vừa hùng. Tuy nhiên, dù như thế nào thì vua Po Rome là một vị vua hết lòng vì dân vì nước. Đặc biệt là vị vua được thần dân Panduranga-Champa tôn kính sau khi tử trận. Nhưng cái chết của vua Po Rome, nhiều tài liệu ghi chép chưa được hợp lý. Theo truyền miệng, vua Po Rome bị bắt trong trận chiến, ngài bị nhốt vào rọ, bỏ đói bỏ khát trên đường đưa về Huế và ngài đã tự tử. Theo Dohamide-Dorohiem, E. Aymonier, … Po Rome thua trận và bị bắt nhốt trong cũi sắt.

Nghi thức đầu tiên, sau khi Po Rome từ trần, hoàng gia Panduranga-Champa đã tổ chức nghi lễ cho Po Rome trong thánh đường (Magik/Masjid) theo nghi thức Hồi giáo của hoàng gia Panduranga-Champa.

Sau đó, Po Rome cũng được hoàn thành một nghi thức khác là hỏa táng theo tập tục bản địa dành cho vị vua theo tín đồ Ahier (Hindu thờ Allah) sùng bái và thờ phượng. Đồng thời tín đồ Cham Ahier cũng khắc tượng vua Po Rome dưới hình thể Mukha Linga (thần Shiva) đưa vào thờ bên trong tháp, thay vì tháp này trước đó xây để thờ thần Shiva của Ấn giáo.

Theo G. Moussay và Po Dharma, khẳng định tờ báo viết bằng chữ Bồ Đào Nha của nhà truyền giáo gốc người Bồ Đào Nha đến Việt Nam viết, vua Po Rome bị bắt đưa ra Phú Xuân. Điều đặt ra, chắc chắn triều đình Huế sẽ tử hình thì còn đâu thi hài vua Po Rome đưa vào thánh đường (Magik) làm lễ theo nghi thức Hồi giáo hay hỏa táng theo tập tục Ahier. Có chăng thần dân Champa chỉ thực hiện các thủ tục theo nghi thức cho ngài mà không có thi hài.

Theo truyền thuyết Cham, thực hiện nghi thức hỏa táng cho Po Rome, Hoàng hậu Sucih (Bia Sucih) không chịu thực hiện các nghi thức hỏa táng vì Hoàng hậu là tín đồ Islam (Hoàng hậu chỉ chấp nhận thổ táng chứ không chịu hỏa táng), sau này, tín đồ Cham Ahier xây một đền nhỏ phía sau tháp Po Rome để thờ phượng bà. Ngược lại Thứ hậu Than Chan (H'bia Than Can) chịu thực hiện nghi thức hỏa táng theo chồng nên Cham Ahier đưa tượng Thứ hậu Bia Than Can vào bên trong tháp cạnh vua Po Rome.

Lưu ý: "Vì không có thi hài của vua Po Rome, nên hoàng gia Champa chỉ thực hiện các nghi thức cho vua Po Rome trong Thánh đường (Magik) theo nghi thức Hồi giáo (Islam). Sau đó, tín đồ Cham Ahier cũng thực hiện một số thủ tục theo nghi thức hỏa táng cho vua Po Rome nhưng không có thi hài của Ngài. Do đó, việc Thứ hậu Bia Than Chan (H'bia Than Can) lên giàn hỏa cũng chỉ là thực hiện theo một nghi thức chứ không hỏa táng bà Thứ hậu Bia Than Chan. Sau này Thứ hậu Bia Than Chan về sống trên cao nguyên và qua đời vào năm 1654, bà mất vào ba năm sau khi vua Po Rome mất năm 1651".

Sau khi vua Po Rome mất, nếu thờ theo Yang thì Ngài có tên là Yang Po Rome (thần Po Rome). Nếu thờ theo Cei thì Ngài có tên là Cei Asit. Nếu thờ theo Atuw (Hồi Giáo) thì Ngài có tên là Cahya. Nếu thờ theo Yang Baruw (Hồi Giáo) thì Ngài có tên là Po Gahluw. Po Rome là một vị vua anh minh, tài ba của đất nước, hùng thiên vang mãi ngàn đời với những chiến công lẫy lừng mà vua Po Rome đã viết vào lịch sử.

Chính hậu, thứ hậu và một số thứ phi khác:

1. Hoàng hậu Sucih (Bia Sucih hay Bia Than Cih): là con gái của vua Po Mah Taha, Bia Sucih là chính hậu của vua Po Rome, có tượng thờ bên phía sau tháp Po Rome.

2. Thứ hậu Than Can (Bia Than Can), tộc người Rhadé có tượng thờ bên trong tháp Po Rome. Công chúa Hadrah Hajan Kapak tộc Rhade.

3. Tam hậu Puteri Siti (Công chúa Siti): Trong thời gian Po Rome ở Makkah, người Malay gọi là Serembi Makkah, tức là tiểu vương quốc Kelatan (Malaysia). Tại đây, Po Rome kết hôn với công chúa Kelantan Puteri Siti. Từ đó, Po Rome chính thức mang tên Thánh Nik Mustafa, tên đầy đủ là: Nik Mustafa Bin Wan Abul Muzaffar Waliyullah. Chính thức là người có danh phận là thành viên của dòng dõi vương triều theo Islam tại Malaysia. Biên niên sử Malaysia ghi lại rằng vua trị vì tại tiểu vương quốc Kelantan hôm nay là dòng giỏi của vua Po Rome.

4. Công nữ Ngọc Khoa: tên đầy đủ là Nguyễn Thị Ngọc Khoa là em ruột cùng mẹ với công nữ Ngọc Vạn và là con gái thứ ba của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Thần dân Champa gọi Bia Ut (Ut; Mal. Skt.Uttara: Phương Bắc). Bia Ut: nghĩa là công chúa phương Bắc, hay công chúa nước Đại Việt. Theo Nguyễn Phước tộc Thế phả, Ngọc Khoa được gả cho vua Po Rome vào năm Tân Mùi (1631). Nhờ có cuộc hôn phối này mà tình giao hảo giữa hai nước được tốt đẹp, để chúa Nguyễn có thể dồn lực lại hòng đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, đồng thời cũng tạo thêm cơ hội cho người Việt mở rộng lãnh thổ về phía Nam.

5. Bia Laku Makam (Hoàng hậu Laku Makam).

6. Bia Hatri (Hoàng hậu Hatri).

7. Bia Sumut (Hoàng hậu Sumut): Một số tài liệu về truyền thuyết Po Rome có ghi một câu: Bia Sumut tok Cam di Kut. Dựa vào thành ngữ này, người Cham cho rằng Bia Sumut là công chúa gốc Hồi Giáo (Islam).

... và một số thứ phi khác.

Hình 3. Po Rome (1627-1651) là một vị vua Champa tôn sùng Hồi giáo (Islam), kế thừa từ triều đại Po Klaong Mah Nai (Po Mah Taha) cũng là một vị vua Champa thời kỳ Islam hùng mạnh. Sau khi Po Rome trần trần, nghi thức đầu tiên, hoàng gia Panduranga tổ chức nghi lễ cho Po Rome trong thánh đường (Magik/Masjid) theo nghi thức Hồi giáo của hoàng gia Panduranga-Champa. Sau đó, Po Rome cũng được hoàn thành một nghi thức khác là hỏa táng theo tập tục bản địa dành cho vị vua theo tín đồ Ahier (Hindu thờ Allah) sùng bái và thờ phượng. Đồng thời tín đồ Cham Ahier cũng khắc tượng vua Po Rome dưới hình thể Mukha Linga (thần Shiva) đưa vào thờ bên trong tháp, thay vì tháp này trước đó xây để thờ thần Shiva của Ấn giáo. Ảnh: Putra Podam.

Hoàng hậu Sucih: biểu tượng của tín đồ Islam thuần thành

Bia Sucih được xem là hiện thân của Hồi giáo trong triều đại Po Rome. Theo biên niên sử Panduranga (Sakkarai dak rai patao) và gia phả Kelantan, khi cộng đồng tín đồ Ahier thực hiện các nghi thức hỏa táng cho Po Rome, thì Hoàng hậu Sucih (Bia Sucih) không chịu hình thức hỏa táng vì bà tín đồ Islam (chỉ chấp nhận thổ táng phù hợp với giáo luật Islam) nên cộng đồng Cham Ahier sau này xây một đền nhỏ phía sau tháp Po Rome để thờ phượng Hoàng hậu Sucih.

Abdul Rahman Tang Abdullah, nhấn mạnh rằng việc thực hành nghi lễ Hồi giáo này không chỉ là quyền lựa chọn cá nhân mà còn là chiến lược củng cố quyền lực Hồi giáo trong triều đình, đồng thời thể hiện tính hợp pháp của hoàng tộc trong cộng đồng tín đồ Hồi giáo Đông Nam Á. Hoàng hậu Bia Sucih còn được ghi nhận tham gia các hoạt động ngoại giao tôn giáo, làm cầu nối với giáo sĩ từ Patani, Kelantan và Singgora, qua đó mở rộng ảnh hưởng của Panduranga-Champa trong mạng lưới Hồi giáo khu vực.

Hình 4. Hoàng hậu Sucih (Bia Sucih), theo bản gốc của mẫu tượng lần đầu thì trên ngực bà không khắc dòng chữ Thrah (Srah). Hình chụp của Henri Parmentier (1871-1949) trong cuốn sách mang tựa “Inventaire descriptif des monuments Cams de l’Annam” (Kiểm kê - mô tả các di tích Champa ở An Nam). Mẫu tượng này bị mất lần đầu được tìm thấy, sau đó mất lần hai năm 1993. Ảnh: Henri Parmentier.

Hình 5. Hoàng hậu Sucih (Bia Sucih), theo bản gốc của mẫu tượng lần đầu thì trên ngực bà không khắc dòng chữ Thrah (Srah). Theo hình vẽ của Henri Parmentier (1871-1949) trong cuốn sách mang tựa “Inventaire descriptif des monuments Cams de l’Annam” (Kiểm kê - mô tả các di tích Champa ở An Nam). Mẫu tượng này bị mất lần đầu được tìm thấy, sau đó mất lần hai năm 1993. Ảnh: Henri Parmentier.

Sau khi mẫu tượng gốc của Hoàng hậu Sucih (Bia Sucih) bị mất vào năm 1993, thì tín đồ Cham Ahier tiếp tục đúc lại tượng mới cho Hoàng hậu Bia Sucih và tự khắc lên ngực Bà với dòng chữ Thrah (Srah) mà bản dập còn lưu trữ tại Pháp, với nội dung: “Đây là cốt truyện của Bia Sucih, nhân vật đáng kính trong vương quốc. Vì không chịu lên giàn hỏa theo chồng nên khắc lên ngực Bia Sucih”.

Dòng chữ Thrah (Srah) được khắc trên ngực Bia Sucih (Hoàng hậu Sucih) như dưới đây:

  ꨗꨫ  ꨚꨗꨶꨮꩄ  ꨝꨳꨩ  ꨧꨭꨌꨪꩍ

  ꨣꨩꨕꨮꩍ  ꨧꨯꨱꩃ   ꨛꨯꨮ  ꨚꨤꨬ

  ꨘꩆ  ꨅꩍ  ꨙꨪꩀ

  ꨀꨚꨶꨬ    ꨧꨯꨱꩃ   ꨚꨧꩃ

  ꨓꨕꨩ   ꨝꨳꨩ  ꨧꨭꨌꨪꩍ

Dòng chữ Thrah (Srah) được dịch sang Rumi Campa 2000 (Putra Podam):

  "Ni panuec Bia Sucih

  Radeh saong Po palei

  Nan oh ndik

  Apuei saong pasang

  Tada Bia Sucih ".

Điều này chứng minh rằng bức tượng Hoàng hậu Sucih (Bia Sucih) ở phía sau tháp Po Rome là Bia Sucih. Từ nhận định trên, khẳng định Bia Sucih không chấp nhận hỏa táng (bởi Bia Sucih không phải tín đồ Hindu hay Ahier mà Hoàng hậu Bia Sucih là tín đồ Islam (con gái vua Islam Po Mah Taha) nên bà chỉ chấp nhận nghi lễ thổ táng theo nghi thức Hồi giáo (Islam).

Hình 6. Hoàng hậu Sucih (Bia Sucih), mẫu tượng này được khắc lại lần thứ hai, sau khi mẫu tượng gốc bị mất vào năm 1993. Trên bức tượng mới này, tín đồ Cham Ahier đã khắc lên ngực Hoàng hậu Sucih với dòng chữ Thrah (Srah). Mẫu tượng lần thứ hai cũng bị mất vào năm 2008. Ảnh: EFEO Pháp. 

Hình 7. Hoàng hậu Sucih (Bia Sucih)​, bức tượng được khắc lại lần thứ ba, bức tượng này hiện tại trên đền, tháp Po Rome. Ảnh: Putra Podam.

Hình 8. Miếu Bia Sucih (Islam), phía sau tháp vua Po Rome. Ảnh: Putra Podam.

Thứ hậu Than Chan: sự hòa hợp tín ngưỡng và huyền thoại hỏa táng

Ngược lại, Thứ hậu Than Chan (H'bia Than Can) tuân theo nghi lễ hỏa táng theo Hindu bản địa tại Panduranga-Champa, cộng đồng Cham Ahier đưa tượng bà vào tháp bên cạnh vua Po Rome, phản ánh việc tiếp tục truyền thống thần hóa hoàng gia theo tín ngưỡng Champa. Po Dharma mô tả là minh chứng cho khả năng hóa giải tôn giáo của triều đình Champa, nơi Islam và tín ngưỡng dân gian cùng tồn tại trong nghi lễ, văn hóa và chính trị. Các nguồn tư liệu Champa nhấn mạnh rằng H'bia Than Can, bằng việc tham gia nghi lễ hỏa táng, củng cố quyền lực hoàng gia và thần quyền hóa vua, đồng thời trở thành biểu tượng của sự nối tiếp truyền thống văn hóa bản địa trong triều đại Po Rome. Huyền thoại về hỏa táng cũng phản ánh cách cộng đồng Cham Ahier bản địa duy trì ký ức văn hóa thông qua kiến trúc, điêu khắc và nghi lễ thờ phụng.

Hình 9. Thứ hậu Than Chan (H'bia Than Can), mẫu tượng gốc bên trong tháp, bên cạnh thần Po Rome. Ảnh: EFEO Pháp. 

Hình 10. Thứ hậu Than Chan (H'bia Than Can), mẫu tượng gốc lần đầu đã bị mất cắp. Ảnh: EFEO Pháp. 

Hình 11. Thứ hậu Than Chan (H'bia Than Can), mẫu tượng phục dựng lại. Ảnh: Putra Podam. 

Hình 12. Thứ hậu Than Chan (H'bia Than Can), bản mẫu lần hai, hiện tại bên trong tháp, bên cạnh vua Po Rome. Ảnh: Putra Podam. 

Hình 13. Công chúa H'bia Hadrah Hajan (Hadrah Hajan Kapak), sinh năm (1630-1654), thuộc sắc tộc Rhade. H'bia Hadrah Hajan trở thành thứ hậu Bia Than Chan (H'bia Than Can hay Bia Than Can: nghĩa là Hoàng hậu Than Can), là con gái của một thủ lĩnh (tộc trưởng) người Rhade (Degar, Ede). Trong tiếng Rhade, H'Drah Hajan Kpă có nghĩa “Công chúa Hạt Mưa”. Tương truyền nhan sắc của Công chúa H'bia Hadrah Hajan đẹp trong trẻo như hạt mưa xa, như những tảng băng thanh khiết, đài các,…Bia Than Chan trở thành Thứ hậu (1645-1651). Một số truyền thuyết Rhade cho rằng Bia Than Chan không chết ngay tại hỏa táng, mà bà được giữ lại, sau này sống trên cao nguyên và qua đời năm 1654. Ảnh: Putra Podam. 

 Nhân vật

 Năm sinh 

 Trị vì

 Năm mất 

 Po Rome

1595

 1627-1651 

1651

 Bia Than Can 

1630

-

1654

Hình 14. Po Rome sinh năm 1595, trị vì (1627-1651), năm mất 1651. Bia Than Chan (H'bia Than Can) sinh năm (1630-1654), trở thành Thứ hậu (1645-1651). Một số truyền thuyết Rhade cho rằng Bia Than Chan không chết ngay tại hỏa táng, mà bà được giữ lại, sau này sống trên cao nguyên và qua đời năm 1654. 

Kết hôn chính trị

Ngoài hai Hoàng hậu chính là Bia Sucih (Bia Than Cih) và H'bia Than Can, phản ánh hai hướng tôn giáo đối lập trong triều đình Panduranga-Champa, Po Rome còn kết hôn chính trị với một số công chúa khác.

Trong thời gian Po Rome ở Makkah, người Malay gọi là Serembi Makkah, tức là tiểu vương quốc Kelatan (Malaysia). Tại đây, Po Rome kết hôn với công chúa Kelantan Puteri Siti (Công chúa Siti). Từ đó, Po Rome chính thức mang tên Thánh Nik Mustafa với tên đầy đủ là: Nik Mustafa Bin Wan Abul Muzaffar Waliyullah. Chính thức là người có danh phận là thành viên của dòng dõi vương triều theo Islam tại Malaysia. Biên niên sử Malaysia ghi lại rằng vua trị vì tại tiểu vương quốc Kelantan hôm nay là dòng giỏi của vua Po Rome.

Công nữ Ngọc Khoa, tên đầy đủ là Nguyễn Thị Ngọc Khoa là em ruột cùng mẹ với công nữ Ngọc Vạn và là con gái thứ ba của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Thần dân Champa gọi Bia Ut (Ut; Mal. Skt.Uttara: Phương Bắc). Bia Ut: nghĩa là công chúa phương Bắc, hay công chúa nước Đại Việt. Theo Nguyễn Phước tộc Thế phả, Ngọc Khoa được gả cho vua Po Rome vào năm Tân Mùi (1631). Nhờ cuộc hôn phối này mà tình giao hảo giữa hai nước được tốt đẹp, để chúa Nguyễn có thể dồn lực đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, đồng thời cũng tạo thêm cơ hội cho người Việt mở rộng lãnh thổ về phía Nam.

Ngoài ra, Po Rome còn hôn phối với một số công chúa khác như: H’bia Laku Makam (Hoàng hậu Laku Makam), H’bia Hatri (Hoàng hậu Hatri), H’bia Sumut (Hoàng hậu Sumut): Một số tài liệu về truyền thuyết Po Rome có ghi một câu: H’bia Sumut tok Cam di Kut. Dựa vào thành ngữ này, người Cham cho rằng H’bia Sumut là công chúa gốc Hồi Giáo (Islam).

Hình 15. Công nữ Ngọc Khoa (Bia Ut). tên đầy đủ là Nguyễn Thị Ngọc Khoa là em ruột cùng mẹ với công nữ Ngọc Vạn và là con gái thứ ba của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Thần dân Champa gọi Bia Ut (Ut; Mal. Skt.Uttara: Phương Bắc). Bia Ut: nghĩa là công nữ phương Bắc, hay công nữ phía Đại Việt. Theo Nguyễn Phước tộc Thế phả, Ngọc Khoa được gả cho vua Po Rome vào năm Tân Mùi (1631). Ảnh: Putra Podam.

Hình 16. Công chúa Siti: Trong thời gian Po Rome ở Makkah, người Malay gọi là Serembi Makkah, tức là tiểu vương quốc Kelatan (Malaysia). Tại đây, Po Rome kết hôn với công chúa Kelantan Puteri Siti. Từ đó, Po Rome chính thức mang tên Thánh Nik Mustafa, tên đầy đủ là: Nik Mustafa Bin Wan Abul Muzaffar Waliyullah. Chính thức là người có danh phận là thành viên của dòng dõi vương triều theo Islam tại Malaysia. Ảnh: Sưu tầm.

Ngày 2/7/2010, đoàn khảo cổ thuộc Trung tâm Phát triển bền vững Nam Bộ đã tiến hành khai quật. Trong quá trình khai quật, đoàn đã phát hiện nhiều hiện vật quý giá mang tính lịch sử và có giá trị nghệ thuật cao như: cái hũ gốm sành trong phế tích Tháp lửa, nhiều phiến đá có dấu tích đẽo gọt hoa văn, …Đặc biệt, đoàn đã khai quật phát hiện một ngôi mộ bên dưới có bộ hài cốt người trong khu vực Tháp Po Rome. Theo nhận định ban đầu, đây là khu mộ “Gahul” hay "Makam" của người Hồi giáo, bởi một số tài liệu về truyền thuyết Po Rome có ghi một câu: "Bia Sumut tok Cam di Kut". Dựa vào thành ngữ này, người Cham cho rằng Bia Sumut là công chúa gốc Hồi Giáo (Islam).

Hình 17. Khu vực tháp Po Rome, có một ngôi mộ “Kabur” hay "Makam" của người Hồi giáo (Islam). Theo nhận định đây là khu mộ của hoàng hậu Bia Sumut có nguồn gốc Hồi Giáo, bởi một số tài liệu về Po Rome có ghi một câu: "Bia Sumut tok Cam di Kut". Dựa vào thành ngữ này, người Cham cho rằng Bia Sumut là công chúa gốc Hồi Giáo (Islam). Ảnh: Putra Podam.

Khu mộ Hồi giáo (Islam) được phát hiện bên cạnh đền tháp có quan hệ như thế nào với vị vua Po Rome (Nik Mustafa), cho đến nay vẫn là một câu hỏi lớn chưa có lời kết luận cuối cùng. Có chăng đây là khu mộ của hoàng hậu Bia Sumut có nguồn gốc Hồi Giáo. Mặc dù vậy, đây vẫn là một câu hỏi lớn dành cho các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm và tiếp tục nghiên cứu hầu đưa ra câu trả lời xác thực.

Hình 18. Vua Po Rome, niên hiệu: Nik Mustafa Bin Wan Abul Muzaffar Waliyullah. Dòng dõi vương triều theo Islam tại Serembi Makkah, thuộc tiểu vương quốc Kelatan-Malaysia. Ảnh trên là vua Po Rome với tháp Po Rome. Ảnh: Putra Podam. 

Hình 19. Vua Po Rome, niên hiệu: Nik Mustafa Bin Wan Abul Muzaffar Waliyullah. Dòng dõi vương triều theo Islam tại Serembi Makkah, thuộc tiểu vương quốc Kelatan-Malaysia. Ảnh: Putra Podam.

Tổng hợp các bằng chứng lịch sử cho thấy triều đại Po Rome là giai đoạn đỉnh cao trong sự kết hợp quyền lực chính trị và tôn giáo ở Panduranga, nơi Po Rome vừa củng cố uy quyền hoàng gia, vừa kết nối mạng lưới tôn giáo Hồi giáo Đông Nam Á, đồng thời duy trì truyền thống tín ngưỡng bản địa. Chính sách song hành tôn giáo và các nghi lễ thần hóa cho Po Rome theo tín đồ Cham Ahier không chỉ bảo tồn bản sắc văn hóa Cham mà còn tạo ra hình tượng vua vừa gần gũi dân chúng vừa thần thánh, mở rộng ảnh hưởng văn hóa và quyền lực của Panduranga ra khu vực rộng lớn hơn, từ Kelantan đến Patani và Singgora.

Hình 20. Bản đồ Đại Việt năm 1611, giai đoạn vua Po Rome (Che Rome, Nik Mustafa, Sultan Abdul Hamid Shah, Nik Mustafa Bin Wan Abul Muzaffar Waliyullah). Po Rome (trị vì: 1627-1651). Bản đồ Panduranga trong giai đoạn này gồm Kauthara (khánh Hòa), Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai và một phần Lâm Đồng). Nguồn: Đại Việt (lãnh thổ Việt Nam).

Hình 21. Gia phả dòng tộc vua Po Romé ở Kelantan - Malaysia. Ảnh: Sưu tầm.

 

Hình 22. Alasilah Raja-raja Kelantan Dari Ahlul Bait (Gia phả vị vua hoàng gia Kelantan). Ảnh: Sưu tầm.

 

Hình 23. Gia phả dòng tộc Islam Champa trong hoàng thất tại Kelantan - MalaysiaẢnh: Sưu tầm.

 

Hình 24. Salasilah Kesultanan Islam Champa - Gia phả vua Islam tại Champa. Ảnh: Sưu tầm.


LINK: Liên kết liên quan

1. Một số tên gọi vị vua Po Rome

2. Bà Nguyễn Thị Thềm không phải hậu duệ của vua Po Klaong Mah Nai

3. Sở Văn hóa Bình Thuận đưa thông tin sai lệch về Po Klaong Mah Nai