Xem Video: Nguyễn Thị Thềm không phải hậu duệ của vua Po Klong Mah Nai
Hằng năm, cộng đồng Cham Ahier (Cham thờ Po Allah còn ảnh hưởng tín ngưỡng Hindu bản địa) vẫn duy trì nhiều nghi lễ truyền thống tại đền Po Klong Mah Nai, nơi tôn kính Po Klong Mah Nai và Hoàng hậu Bia Som cùng các Thứ Phi người Cham. Tuy nhiên, thông tin do Sở Văn hóa tỉnh Bình Thuận công bố rằng Po Klong Mah Nai là vị vua cuối cùng của Champa và các bảo vật của ông hiện được lưu giữ tại nhà bà Nguyễn Thị Thềm được cho là hậu duệ và “công chúa cuối cùng” của người Cham là không chính xác.
Po Klong Mah Nai trị vì giai đoạn 1622-1627, trong khi bà Nguyễn Thị Thềm sinh năm 1911 và mất năm 1995, cách nhau gần ba thế kỷ. Bà Nguyễn Thị Thềm có thể thuộc hậu duệ các quan lại của Thuận Thành trấn do triều Nguyễn bổ nhiệm đầu thế kỷ XIX, không liên hệ huyết thống với vương tộc Churu hay Raglai của Po Klong Mah Nai và Po Rome.
Các hiện vật từng lưu giữ tại nhà bà Thềm thực chất được một hậu duệ người Churu gửi nhờ bà Nguyễn Thị Thềm cất giữ trong bối cảnh biến động xã hội nửa sau thế kỷ XX, hoàn toàn không phải là gia bảo gốc của triều Po Klong Mah Nai. Gia bảo và nghi lễ của triều Po Klong Mah Nai hay Po Rome từ đầu thế kỷ XVII vẫn được truyền giữ nghiêm ngặt trong nội tộc Churu tại Panduranga và không chuyển sang các nhánh khác hay cá nhân bên ngoài triều đình.
Việc nhầm lẫn về nguồn gốc bảo vật và quyền thừa kế đã dẫn đến nhiều bài báo, phóng sự và tin tức sai lệch, gây hiểu lầm cho cộng đồng Cham cũng như độc giả quốc tế. Do đó, cần hiệu đính hồ sơ và thông tin di sản để đảm bảo tính chính xác về lịch sử, truyền thống tôn giáo và văn hóa của Champa, đồng thời tôn trọng quy luật bảo lưu gia bảo trong nội tộc người Churu.
A. Thông tin
Theo Ts. Putra Podam, những nhận định được nhiều cơ quan truyền thông tại Việt Nam phổ biến rằng bà Nguyễn Thị Thềm là “công chúa cuối cùng của dân tộc Cham”, hoặc là hậu duệ của vua Po Klong Mah Nai là vị vua tôn sùng Hồi giáo và có quyền thừa kế các gia bảo của ông, là giả thuyết sai lầm và cần được xem xét lại.
Các tư liệu lịch sử và truyền thống dân tộc cho thấy, khi vương quốc Champa suy yếu, các vua và hoàng tộc từng lánh lên vùng núi sinh sống cùng các cộng đồng Churu, Raglai, và những kho báu do đấng quân vương để lại được nhiều thế hệ người Churu và Raglai cẩn trọng gìn giữ, thậm chí mang theo trong các thời kỳ loạn lạc. Đến khoảng năm 1940, khi xác định bà Nguyễn Thị Thềm là hậu duệ của các quan lại người Cham theo hệ thống chính quyền mới do triều Nguyễn lập, một số vật phẩm quý của triều đại cũ được cộng đồng Churu bàn giao cho bà Nguyễn Thị Thềm để cất giữ giùm, không phải vì bà Nguyễn Thị Thềm là hậu duệ trực hệ của Po Klong Mah Nai hay quyền thừa kế hoàng tộc.
Bà Nguyễn Thị Thềm (1911-1995) có thể là hậu duệ của một quan lại làm việc thuộc vương triều Thuận Thành trấn cuối cùng do Gia Long và Minh Mệnh phong chức, như:
- Po Saong Nyung Ceng (Nguyễn Văn Chấn, 1799-1822),
- Po Klan Thu (Nguyễn Văn Vĩnh, 1822-1828),
- Po Phaok The (Nguyễn Văn Thừa, 1828-1832).
Bà Nguyễn Thị Thềm sinh sống tại thôn Tịnh Mỹ, xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận, thuộc cộng đồng Cham Ahier. Với niên đại này, bà Nguyễn Thị Thềm không thể là hậu duệ trực hệ của Po Klong Mah Nai (trị vì 1622-1627), thuộc dòng tộc Churu của vua Po Rome, và do đó không có quyền sở hữu hay thừa kế các gia bảo của triều đại Po Klong Mah Nai.
Khẳng định:
Bà Nguyễn Thị Thềm có thể là hậu duệ của một quan lại người Cham làm việc cho vương triều Thuận Thành trấn cuối cùng là gốc người dân tộc Cham giai đoạn: Po Saong Nyung Ceng, Po Klan Thu, hay Po Phaok The.
Bà Nguyễn Thị Thềm (Cham Ahier), không thể nào là hậu duệ trực hệ của vua Po Klong Mah Nai (Islam sắc tộc Churu). Triều đại vua Po Klong Mah Nai (1622-1627) phải trải qua 19 đời vua khác mới đến vương triều cuối cùng Po Phaok The (1828-1832). Xem các đời vua trong Mục C.
B. Po Klong Mah Nai (Maha Taha)
Po Klong Mah Nai (trị vì 1622-1627) là một vị vua theo Hồi giáo (Islam) và nổi bật với lòng sùng bái Islam, mang tước hiệu Hồi giáo là Maha Taha. Theo biên niên sử Panduranga (Sakkarai dak rai patao), Po Mah Taha không có quan hệ huyết thống với vương triều Po Klong Halau, một dòng tộc quyền lực trước đó của Panduranga. Ông lên ngôi vào năm Tuất và thoái vị vào năm Thỏ, trị vì trong vòng 6 năm, với kinh đô đặt tại Bal Canar (Parik - Panduranga). Trong các tư liệu Hán-Việt, Po Mah Taha được ghi nhận với tên phiên âm là Bà Khắc-Lượng Như-Lai.
Triều đại của Po Klong Mah Nai đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong quá trình Hồi giáo hóa Panduranga, đồng thời duy trì những ảnh hưởng văn hóa và tín ngưỡng bản địa Champa. Dưới sự trị vì của ông, Hồi giáo trở thành tôn giáo chính trong triều đình và ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống tôn giáo, xã hội của cộng đồng Cham Ahier tại Panduranga.

Hình 1. Vua Po Klong Mah Nai (Po Mah Taha),trị vì gia đoạn 1622-1627, vị vua sùng bái Islam (Hồi giáo). Ảnh: Putra Podam.
Theo các nhà nghiên cứu người Pháp, nhiều tư liệu khoa học và biên niên sử Panduranga (Sakkarai dak rai patao), Po Klong Mah Nai (1622-1627) vị vua theo Islam đã gã con gái Than Cih hay Sucih (tín đồ Islam-Hồi giáo) và truyền ngôi cho vua Po Rome (1627-1651).

Hình 2. Po Rome (1627-1651) Po Rome được thần dân Cham kính trọng và thờ phượng tùy theo tín đồ Ahier (Hindu thờ Allah) hay tín đồ Awal (Islam - Hồi giáo). Nếu thờ theo Yang thì Ngài có tên là Yang Po Rome (thần Po Rome). Nếu thờ theo Cei thì Ngài có tên là Cei Asit. Nếu thờ theo Atuw (Hồi Giáo) thì Ngài có tên là Cahya. Nếu thờ theo Yang Baruw (gốc Hồi Giáo) thì Ngài có tên là Po Gahluw. Ảnh: Putra Podam.
Vua Po Rome (trị vì 1627-1651) lên ngôi tại Panduranga với Chính hậu là Bia Sucih (Bia Than Cih) và Thứ hậu Bia Than Can, thuộc dân tộc Rade, có bức tượng bên trong tháp Po Rome.
Trong thời gian Po Rome ở Makkah, người Malay gọi là Serembi Makkah, tức là tiểu vương quốc Kelatan (Malaysia). Tại đây, Po Rome kết hôn với công chúa Kelantan Puteri Siti (Công chúa Siti). Từ đó, Po Rome chính thức mang tên Thánh Nik Mustafa với tên đầy đủ là: Nik Mustafa Bin Wan Abul Muzaffar Waliyullah. Chính thức là người có danh phận là thành viên của dòng dõi vương triều theo Islam tại Malaysia. Biên niên sử Malaysia ghi lại rằng vua trị vì tại tiểu vương quốc Kelantan hôm nay là dòng giỏi của vua Po Rome.
Công nữ Ngọc Khoa, tên đầy đủ là Nguyễn Thị Ngọc Khoa mà thần dân Champa gọi tứ phi Bia Ut (Ut; Mal. Skt.Uttara: Phương Bắc). Bia Ut: nghĩa là công chúa phương Bắc, hay công chúa nước Đại Việt. Theo Nguyễn Phước tộc Thế phả, Ngọc Khoa được gả cho vua Po Rome vào năm Tân Mùi (1631). Nhờ cuộc hôn phối này mà tình giao hảo giữa hai nước được tốt đẹp, để chúa Nguyễn có thể dồn lực đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, đồng thời cũng tạo thêm cơ hội cho người Việt mở rộng lãnh thổ về phía Nam.
Ngoài ra, Po Rome còn hôn phối với một số công chúa khác như: H’bia Laku Makam (Hoàng hậu Laku Makam), H’bia Hatri (Hoàng hậu Hatri), H’bia Sumut (Hoàng hậu Sumut): Một số tài liệu về truyền thuyết Po Rome có ghi một câu: H’bia Sumut tok Cam di Kut. Dựa vào thành ngữ này, người Cham cho rằng H’bia Sumut là công chúa gốc Hồi Giáo (Islam).

Hình 3. Vua Po Rome, niên hiệu: Nik Mustafa Bin Wan Abul Muzaffar Waliyullah. Dòng dõi vương triều theo Islam tại Serembi Makkah, thuộc tiểu vương quốc Kelatan-Malaysia. Ảnh: Putra Podam.
C. PANDURANGA: Các đời vua sau Po Mah Taha
VI. Triều đại Po Mah Taha (Po Klong Mah Nai)
1[23]. Po Mah Taha (1622-1627)
Ngài không có liên hệ thân tộc với vương triều Po Klong Halau, lên ngôi năm Tuất, thoái vị năm Thỏ, trị vì 6 năm, đóng đô ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
2[24]. Po Romé (1627-1651)
Con rể của vua Po Mâh Taha, lên ngôi năm Thỏ, thoái vị năm Thỏ, trị vì 25 năm, đóng đô ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
3[25]. Po Nrop (1652-1653)
Po Nrop là con trai trưởng của Po Romé (theo gia phả là con của vua Po Rome), lên ngôi năm Thìn, thoái vị năm Tỵ, trị vì 1 năm. Ngài xây một thành trì ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
4[26]. Po Saktiraydapaghoh (1654-1657)
Con rể vua Po Rome kết hôn với Po Mul là con gái Po Rome và H’bia Than Chan, nhận tấn phong của vua Việt Nam vào năm Ngọ, thoái vị năm Dậu, trị vì 4 năm, đóng đô ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
5[27]. Po Jatamah (1657-1659)
Con rể của vua Po Saktiraydapaghoh là Con nuôi của Po Nrop, nhận tấn phong của vua Việt Nam vào năm Dậu, với chức phong là Ndo Naok Ndai Tang Kuan (Ðô Ðốc Ðại Tướng Quân), trị vì 2 năm, đóng đô ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
6[28]. Po Saot (1655, 1660-1692)
Con của vua Po Saktiraydapaghoh, nhận tấn phong của vua Việt Nam vào năm Mùi, nhưng cho mãi đến năm Tý, ngài mới lên ngôi. Ngài thoái vị năm Thân, trị vì 33 năm, đóng đô ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
Thời kỳ bị gián đoạn (1692-1695)
Sau Po Saot, biên niên sử nói là có sự gián đoạn triều đại trong vòng 3 năm.
7[29]. Po Saktiraydapatih (1695, 1696-1727)
Em ruột của vua Po Saot, nhận tấn phong của vua Việt Nam vào năm Hợi, nhưng cho mãi đến năm Tý, ngài mới lên ngôi. Ngài thoái vị năm Mùi, trị vì 32 năm, đóng đô ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
8[30]. Po Ganuhpatih (1728-1730)
Cháu của vua Saktiraydapatih, nhận tấn phong của vua Việt Nam vào năm Thân, thoái vị năm Tuất, trị vì 3 năm, đóng đô ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
9[31]. Po Thuntiraidaputih (1731-1732)
Con của vua Po Saot, nhận tấn phong của vua Việt Nam vào năm Hợi với chức phong là Kham Lik Mbin (Khâm Lý Binh), thoái vị năm Tý, trị vì 1 năm, đóng đô ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
10[32]. Po Rattiraydaputao (1732, 1735-1763)
Cháu của vua Po Saktiraydapatih, nhận tấn phong của vua Việt Nam vào năm Tý cho đến năm Thỏ, ngài mới lên ngôi. Ngài thoái vị năm Mùi, trị vì 29 năm, đóng đô ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
11[33]. Po Tisundimahrai (1763-1765)
Không rõ ngài có liên hệ gì với thân tộc của vương triều vua Po Mâh Taha. Nhận tấn phong của vua Việt Nam vào năm Mùi với chức phong là Kai Bait Mbin (Cai Bếp Binh). Ngài thoái vị năm Dậu, trị vì 1 năm, đóng đô ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
12[34]. Po Tisuntiraydapaghoh (1765, 1768-1780)
Con của Po Thuntiraidaputih, nhận tấn phong của vua Việt Nam vào năm Dậu cho đến năm Tý ngài mới lên ngôi. Ngài thoái vị năm Tý, trị vì 13 năm và đóng đô ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
13[35]. Po Tisuntiraydapuran (1780-1781)
Ngài không có liên hệ thân tộc với vua Po Tisuntiraydapaghoh, nhận tấn phong của vua Việt Nam vào năm Tý với chức phong là Praong “quan lớn››. Sau 1 năm trị vì, ngài bị quân Việt Nam bắt vào năm Sửu, nhưng không cho biết lý do gì. Đóng đô ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
14[36]. Cei Brei (1783-1786)
Con của vua Po Tisuntiraydapaghoh (triều 33), nhận tấn phong của Nguyễn Nhạc (Tây Sơn) vào năm Thỏ với chức tấn phong là Ceng (Chưởng Cơ), trị vì 4 năm và thoái vị năm Ngọ. Đóng đô ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
15[37]. Po Tisuntiraydapuran (1786-1793)
Sau một lần lên ngôi vào năm Tý, trị vì một năm, vua Nguyễn Nhạc lại tấn phong cho ngài năm Ngọ với chức Ceng (Chưởng Cơ), trị vì 8 năm sau đó bị bắt đưa về Ndaong Nai (Ðồng Nai) vào năm Sửu.
VII. Triều đại không biết xuất xứ
16[38]. Po Ladhuanpaghuh (1793-1799)
Ngài xuất thân từ gia đình nông dân, nhận tấn phong của vua Việt Nam vào năm Sửu với chức phong là Ceng (Chưởng Cơ), trị vì 7 năm và thoái vị năm Mùi. Không biết ngài đóng đô ở đâu.
17[39]. Po Saong Nhung Ceng (1799-1822)
Không biết ngài xuất thân từ gia đình nào. Ngài nhận tấn phong của vua Việt Nam vào năm Mùi với chức Ceng (Chưởng Cơ), trị vì 24 năm và thoái vị vào năm Ngọ. Ngài đóng đô ở Bal Canar (Parik - Panduranga).
Tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao chấm dứt với triều đại Po Soang Nhung Ceng (1799-1822). Ngược lại, một số biên niên sử khác viết bằng tiếng Chăm cho rằng sau ngày từ trần của Po Saong Nhung Ceng tại Bal Canar (Phan Rí) vì tuổi già chứ không phải là người chạy sang Campuchia lánh nạn như một số nhà nghiên cứu (Dorohiem & Dohamide) hiểu lầm, còn có hai vị vua cuối cùng tiếp tục lên ngôi, đó là:
18[40]. Po Klan Thu (1822-1828)
Po Klan Thu là phó vương dưới thời Po Saong Nhung Ceng.
19[41]. Po Phaok The (1828-1832)
Po Phaok The là con của Po Saong Nhung Ceng (1799-1822), tức là tiền nhân của dòng Bà Thềm ở Phan Rí hôm nay.
Lợi dụng ngày từ trần của Lê Văn Duyệt (Tổng Trấn Gia Định Thành) vào năm 1832, vua Minh Mạng quyết định xóa bỏ vương quốc Champa trên bản đồ Đông Dương.
Sakkarai Dak Rai Patao này được sáng tác hay là chép lại vào năm đệ nhất của triều đại Ham Ngi (Hàm Nghi), tức là vào năm 1884.
D. Bà Nguyễn Thị Thềm người trông coi báu vật Thuận Thành trấn
Bà Nguyễn Thị Thềm được truyền thông tỉnh Bình Thuận thường gọi “bà công chúa cuối cùng”, sinh năm 1911 và mất năm 1995. Bà mang họ “Nguyễn” là quốc tính do triều Nguyễn ban. Bà sinh sống tại thôn Tịnh Mỹ, xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.
Sau khi bà Nguyễn Thị Thềm qua đời vào năm 1995, bà Nguyễn Thị Đào là người được thừa kế việc trông giữ kho báu khổng lồ từ thời điểm đó cho đến khi bà mất năm 2015. Trước đó, toàn bộ kho báu đều do bà Nguyễn Thị Thềm gìn giữ. Do không có con, bà Nguyễn Thị Thềm đã giao lại trách nhiệm bảo quản kho báu cho bà Nguyễn Thị Đào, là cháu gái út của bà. Bà Nguyễn Thị Đào là con gái út của bà Nguyễn Thị Ngôi là em gái út của bà Nguyễn Thị Thềm. Vì bà Nguyễn Thị Ngôi mất sớm, nên bà Nguyễn Thị Đào được bà Nguyễn Thị Thềm trực tiếp nuôi dưỡng.

Hình 4. Bà Nguyễn Thị Thềm, người trông coi báu vật Thuận Thành trấn. Ảnh: Sưu tầm.
Theo ông Văn Hồng Tịnh, hoàng tộc hiện đang lưu giữ hơn 100 hiện vật quý, bao gồm vương miện, hoàng bào, đao kiếm, mũ vệ binh, sắc phong, bút tích các vua triều Nguyễn, cùng nhiều xiêm y và trang sức của hoàng hậu, thái tử và công chúa. Ngoài ra, còn có nhiều cổ vật như tô, đĩa, lư hương, chân đèn, hộp trầu khảm xà cừ độc đáo. Tất cả những hiện vật này có niên đại gần bốn thế kỷ, phản ánh rõ kỹ nghệ chế tác tinh xảo của cư dân Champa xưa (theo bài viết của Nguyễn Xuân Lý, đăng trên báo Người Lao Động).
Ông Tịnh cho biết rằng, trước năm 1940, tương truyền từ nhiều thế kỷ trước, khi Panduranga thất thủ, nhà vua đã rút lên vùng núi và nương náu cùng người Churu, Raglai. Những báu vật của vương triều, được vị quân vương gửi lại, đã được các thế hệ người Churu, Raglai bảo tồn, tôn kính và luôn mang theo bên mình ngay cả trong thời loạn lạc.
Mãi đến năm 1940, khi xác định bà Nguyễn Thị Thềm thuộc dòng dõi quan lại người Cham, dòng họ Churu, Raglai mới chủ động đưa các báu vật từ rừng sâu xuống gửi bà cất giữ giùm.

Hình 5. Ông Văn Hồng Tịnh bên kho báu của hoàng tộc và bức ảnh chụp tượng vua Po Klong Mah Nai. Ảnh: Sưu tầm.
Theo Báo Bình Thuận (06/05/2022), trong bài “Chúng ta biết gì về đóng góp của hoàng tộc Cham trong ‘Tuần lễ vàng’”, ghi lại lời bà Thềm: sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh và Việt Minh kêu gọi nhân dân hưởng ứng “Tuần lễ vàng” và xây dựng “Quỹ Độc Lập”, những người có vai vế trong dòng tộc đã họp để quyết định hiến tặng báu vật nào. Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Thềm, vật hiến chính là vương miện của vua và búi tóc của hoàng hậu người Cham. Bà là người trực tiếp làm lễ xin tổ tiên trước khi hiến cho Việt Minh.
Trong bài “Về báu vật của hoàng tộc Nguyễn Thị Thềm”, tác giả Phạm Khánh Toàn cho biết ông Dụng Thiết và bà Nguyễn Thị Thềm, với sự đồng thuận của gia tộc, đã mang đi một số báu vật gồm một mão vàng, một búi tóc vàng, một nải chuối vàng, một quả mãng cầu vàng và một quả khế vàng, với tổng trọng lượng lên đến vài ki-lô-gam.
Trên Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance, tác giả Minh Tâm khi viết về “Tuần lễ vàng” ở Bình Thuận đã ghi nhận rằng: “Bà Nguyễn Thị Thềm, dòng dõi vua Cham, đã hiến chiếc mão của vua và dĩa đựng trầu cau bằng vàng từ bao đời để lại”.
Báo điện tử của cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, trong bài “Từ ‘Tuần lễ vàng’ đến ‘Quỹ Độc Lập’: Bài học quý về công tác dân vận” (tác giả Tạ Quang Đạo, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, đăng ngày 19/9/2019) cũng viết: “Bà Thềm - Công chúa Cham - ủng hộ một mũ vàng, một quả na, một quả khế, một nải chuối vàng và cả chiếc mục vàng của dòng họ vua Cham…”.

Hình 6. Mặc dù chiếc mão này hiện được giới thiệu là “vương miện của vua Po Klong Mah Nai”, song xét về hình thức, phong cách nghệ thuật, bối cảnh tôn giáo và tư liệu lịch sử, không có cơ sở khoa học để xác định đây là mão ngự dụng của vua Po Klong Mah Nai (Maha Taha), vua Panduranga thế kỷ XVII. Hiện vật nên được hiểu là mão nghi lễ hoặc hiện vật thờ tự mang tính biểu trưng được tạo tác hậu kỳ, phục vụ việc thần thánh hóa hình tượng vua tại đền, không phải hiện vật lịch sử gốc của triều đại. Phản biện này đề nghị hội đồng khoa học điều chỉnh nhãn trưng bày, phân loại hiện vật, đồng thời mở rộng nghiên cứu để làm rõ lịch sử nghi lễ và thần thánh hóa vua Champa. Ảnh: Putra Podam.

Hình 7. Theo Sở Văn hóa tỉnh Bình Thuận, hiện vật này được giới thiệu là đồ chụp búi tóc bằng vàng của Hoàng hậu Bia Som, có kỹ thuật chế tác tinh xảo và mang đặc trưng của trang sức nghi lễ Champa muộn. Đây có thể là loại trang sức chỉ dành cho phụ nữ thuộc tầng lớp hoàng tộc hoặc quý tộc cao cấp, được sử dụng trong các nghi lễ cung đình và tôn giáo. Tuy nhiên, hiện vật này không đủ cơ sở khoa học để khẳng định là đồ dùng cá nhân của hoàng hậu Bia Som, chính hậu của vua Po Klong Mah Nai. Không tồn tại văn bản lịch sử hay văn bia nào ghi nhận trực tiếp hiện vật gắn với nhân vật này, đồng thời hiện vật cũng thiếu ngữ cảnh khảo cổ rõ ràng để xác định chủ nhân cụ thể. Mặt khác, đồ chụp búi tóc bằng vàng không phải là hiện vật độc bản, mà là loại hình trang sức chung trong hoàng gia Cham, có thể được sử dụng bởi nhiều hoàng hậu, vương phi hoặc phụ nữ quý tộc khác. Từ góc độ nghiên cứu lịch sử và khảo cổ học, việc gán tên một cá nhân lịch sử cho hiện vật khi chưa có chứng cứ xác thực là không phù hợp với nguyên tắc khoa học. Trong trường hợp này, cách tiếp cận đúng đắn và thận trọng nhất là định danh hiện vật theo loại hình, niên đại và bối cảnh văn hóa, thay vì gắn với tên hoàng hậu Bia Som dựa trên suy đoán hoặc truyền miệng. Do đó, có thể kết luận rằng hiện vật là một đồ chụp búi tóc hoàng gia Cham có giá trị cao về mặt lịch sử và nghệ thuật, nhưng việc xác định nó thuộc về hoàng hậu Bia Som hiện vẫn chưa thể kiểm chứng và cần được xem xét. Ảnh: Putra Podam.

Hình 8. Sắc phong lưu giữ bút tích của vua triều Nguyễn. Ảnh: Sưu tầm.

Hình 9. Khăn đóng của Hoàng gia??? Ảnh: Sưu tầm.

Hình 10. Bộ ăn trầu của Hoàng gia. Ảnh: Sưu tầm.
Một số bảo vật được Sở Văn hóa tỉnh Bình Thuận cho rằng liên quan vua Po Klong Mah Nai.




Bộ Xiêm Y của Hoàng gia xuống cấp trầm trọng.

Y trang của vua Po Klong Mah Nai và hoàng hậu Bia Som làm bằng chất liệu vải hảo hạng với nhiều họa tiết, hoa văn tinh xảo. Tuy nhiên, đến thời điểm này vẫn chưa có lời giải về chất liệu của những bộ y trang này.

Trang phục của vua, hoàng hậu, công chúa đã được phục chế tại Trung tâm Trưng bày Văn hóa Cham.

LINKs: Liên kết liên quan
1. Petition Requesting the Correction of Historical Information at the Po Klong Mah Nai Heritage Site
2. Kiến nghị hiệu đính thông tin lịch sử tại di tích đền Po Klong Mah Nai
3. Po Klong Mah Nai truyền ngôi cho Po Rome (Nik Mustafa)
4. King Po Klong Mah Nai abdicated in favor of Po Rome (Nik Mustafa) (English)
5. Sở Văn hóa Bình Thuận đưa thông tin sai lệch về Po Klong Mah Nai
6. Bà Nguyễn Thị Thềm không phải hậu duệ của vua Po Klong Mah Nai
7. Putra Podam video: Vua Po Klaong Manai vị vua Islam (Hồi giáo)
8. Putra Podam video: Tháp Champa: Đền thờ Po Klaong Mah Nai
9. Video Đài Bình Thuận (BTV): Lễ phụng tế Po Klong Mah Nai ???
Tài liệu tham khảo
1. Aymonier, Étienne. Notes sur les Chams et leur religion. Paris: 1891.
2. Cabaton, Antoine. Essai sur la langue cam. Paris: 1901.
3. Maspero, G. Le Royaume de Champa. Paris: 1928.
4. Parmentier, Henri. Monuments chams de l’Annam, Tome I. Paris: Publications de l’École Française d’Extrême-Orient (EFEO), 1909.
5. Coedès, George. The Indianized States of Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press, 1968.
6. Moussay, Gabriel. Dictionnaire Cam-Français. Saigon: 1971.
7. Po Dharma. Le Panduranga (Campa) 1802-1835. Paris: École Française d’Extrême-Orient, 1987.
8. Po Dharma. L’histoire du Campa. Paris: 1989. Xem thêm Pierre-Bernard Lafont (ed.), Champa et le Monde Malais. Paris: 1995.
9. Mohd. Zamberi A. Malek. The Malay-Champa Historical Relations. Kuala Lumpur: 1995.
10. Sakkarai dak rai patao (Biên niên sử các vua Panduranga). Bản chép tay lưu hành trong cộng đồng Cham; đối chiếu theo Po Dharma, Chroniques des rois de Panduranga, EFEO Archives.
11. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Thực Lục. Bản dịch Viện Sử học, Hà Nội.
12. Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam. Quyết định số 43/VH/QĐ ngày 7/1/1993 về công nhận di tích lịch sử và nghệ thuật quốc gia.