Người Cham là một trong 54 dân tộc thuộc thành phần dân tộc bản địa cư trú lâu đời ở miền Trung Việt Nam. Theo tổng điều tra dân số của Nhà nước Việt Nam vào năm 2009, tổng số người Cham tại Việt Nam là 161.729 được phân bố ở nhiều tỉnh khác nhau như Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận, Long Khánh, Bình Phước, Tây Ninh, Châu Đốc và Thành phố Hồ Chí Minh. Ở nước ngoài, tổng dân số Cham tại Kampuchea khoảng 800 ngàn người, Malaysia khoảng 400 ngàn người, Thái Lan 30 ngàn người, và một số ít sống tại Pháp, Hoa Kỳ, Hainan (Trung Quốc).
Tiếng Cham là ngôn ngữ thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo (Autronesian), đại chi Malayo-Polynesian (Malay-đa đảo). Ở Việt Nam, tiếng Cham rất gần gủi với nhóm ngôn ngữ như: Jarai, Rhade, Cham, Churu, Raglai, Hroi, Aceh, Hainan,...được gọi chung là Chamic.
Người Cham (thuộc Champa) có chữ viết riêng, chữ viết Champa cổ (akhar Hayap) được sử dụng từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ XV và chữ viết akhar Thrah sử dụng từ thế kỷ XVI đến nay. Ngoài ra chữ Hán được tìm thấy trên các con dấu hay trên các văn kiện liên quan đến triều đình Nhà Nguyễn; chữ viết Ả Rập (Arabic) hay chữ Jawi được người Champa vùng Nam Bộ thường dùng để ghi giáo luật Islam giáo và văn hóa Islam giáo; ngày nay cộng đồng Cham, đa số cán bộ, sinh viên và trí thức Cham còn sử dụng chữ viết Rumi Champa 2000 (Putra Podam) để phiên tự hay phiên âm cho các tác phẩm văn học cũng như sử dụng trong giao tiếp hàng ngày.
Bài viết này nhằm giới thiệu và phân loại chữ viết Cham, các kiểu chữ viết Cham, phân tích sự hình thành và phát triển Rumi Cham và hệ thống Rumi Champa 2000, đồng thời nhằm góp phần bảo tồn và phát huy chữ viết Cham, chữ viết của nền văn minh dân tộc ở Đông Nam Á.
1. Đặc điểm tiếng nói
Người Cham là một tộc người thuộc vương quốc Champa, ngày nay thuộc một trong các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Tiếng Cham là ngôn ngữ của người Cham ở Đông Nam Á thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo (Autronesian), đại chi Malayo-Polynesian (Malay-đa đảo). Ở Việt Nam, tiếng Cham rất gần gủi với một số tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ như: Jarai, Rhade, Churu, Raglai, Hroi.
Ở Việt Nam, cộng đồng người Cham định cư chủ yếu ở Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang, Tây Ninh, TP. Hồ Chí Minh, Bình Định, Phú Yên, ... Ở nước ngoài, cộng đồng người Cham định cư chủ yếu ở Kampuchea, Malaysia, ThaiLand, Hoa Kỳ, Pháp, Hainan (Trung Quốc) và Aceh.
Từ đặc điểm trên và địa bàn cư trú không đồng đều, cách biệt về mặt địa lý nên đã ảnh hưởng rất lớn đến đặc điểm lịch sử, văn hóa, tiếng nói của cộng đồng này. Nhìn chung tiếng nói của người Cham có sự khác biệt tùy theo khu vực và vùng miền. Mỗi vùng miền có sử dụng một số đặc điểm và phương ngữ riêng do quá trình lịch sử và quá trình tiếp xúc các tộc người xung quanh. Trong quá trình giao lưu văn hóa giữa các tộc người, để truyền bá và trao đổi thông tin, người Cham đã sáng tạo và sử dụng thêm một số ngôn ngữ khác như tiếng Phạn, Malay, Ả Rập (Arabic) và Việt ngữ,…đã trở thành di sản tiếng nói của người Cham.
2. Đặc điểm chữ viết
Theo tài liệu lịch sử Trung Quốc, Champa độc lập từ năm 192 sau công nguyên, cuối thế kỷ thứ 2 (R. Stein, 1947). Cũng theo các nhà nghiên cứu Tây Phương, thần dân Champa đã sử dụng một loại chữ viết khá sớm để tạc khắc chữ trên các bia đá. Chữ viết này có nguồn gốc từ chữ cái Devanagari (Ấn Độ). Trong thời kỳ đầu, người Champa chủ yếu dùng chữ Champa cổ để khắc tiếng Phạn, dần dần người Champa hoàn thiện chữ viết này sử dụng để khắc tiếng Chamic. Akhar Thrah là chữ viết phổ biến nhất và trở thành chữ viết chính thức của vương quốc Champa từ thế kỷ 17, ngoài được khắc trên Tháp Po Rome, chữ viết này còn được viết tay và sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực từ ban giao quốc tế, hành chánh, tôn giáo, lịch sử, văn học Cham,…
Ngoài ra, người Cham còn dùng chữ Hán được tìm thấy trên các con dấu hay trên các văn kiện liên quan đến triều đình Nhà Nguyễn. Song song thời kỳ này, người Cham còn dùng chữ viết Ả Rập hay chữ Jawi Cham để ghi kinh thánh của các bậc Cham Awal (akhar Bani) như giới giáo sĩ Acar, Katip, Imam,…
Để bảo tồn, phổ biến cũng như hỗ trợ dạy và học chữ viết Thrah được thuận lợi, hiện nay cộng đồng Cham, đa số cán bộ, sinh viên và trí thức Cham đã sử dụng chữ viết Rumi Champa 2002 (Putra Podam) để phiên tự hay phiên âm cho các tác phẩm văn học cũng như sử dụng trong giao tiếp hàng ngày.
2.1. Giai đoạn phát triển chữ viết Champa (quen gọi chữ Cham)
Căn cứ vào nhiều tư liệu về nguồn gốc lịch sử phát triển chữ viết, chữ viết Champa có thể được chia thành ba giai đoạn chính như sau:
2.1.1. Thời kỳ chữ Champa cổ đại (từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ XV): Giai đoạn này người Cham sử dụng chữ Champa cổ để tạc khắc chữ trên bia đá nên thường gọi là akhar Hayap. Akhar Hayap ở thời kỳ này có nguồn gốc từ chữ viết Devanagari (Ấn Độ). Chữ Champa cổ được tìm thấy trên bia đá Võ Cạnh (nay xã Vĩnh Trung, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) vào thế kỷ thứ 2 (G. Coedes, 1939; Filliozat Jean, 1969). Đây là chữ Champa cổ xưa nhất được tìm thấy ở vùng Đông Nam Á nói Chung và Champa nói riêng. So với Mã Lai, các nhà khoa học đã tìm thấy tiếng Malay được khắc trên trên bia đá ở đảo Java vào thế kỷ thứ 7 (Casparis, 1956), Kampuchea dùng chữ cổ để khắc tiếng Khmer vào thế kỷ thứ 9 (Ian Nathaniel Lowman, 2011). Trong khi tiếng Cham đã xuất hiện trên trên bia ký Đồng Yên Châu (Trà Kiệu) vào thế kỉ thứ 4(Al-Ahmadi,1988; Coedes, 1939; Lafont, 2011).
Nội dung trên một số bia ký ở Champa cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin có giá trị khoa học về văn hóa, ngôn ngữ, phong tục và lễ nghi. Nội dung trên bia Võ Cạnh chủ yếu ghi bằng tiếng Phạn, trong khi nội dung trên bia Đồng Yên Châu ghi song ngữ cả tiếng Phạn lẫn tiếng Cham.
2.1.2. Thời kỳ chữ Champa trung đại (sau thế kỷ thứ XV): Đây là giai đoạn đánh dấu sự suy tàn của nền văn minh Ấn giáo ở Champa, cũng là giai đoạn mà tiếng Phạn không còn phát triển, mà thay vào đó các bậc tu sĩ Cham Ahiér như Po Adhia, Basaih,…bắt đầu sử dụng akhar Thrah để ghi chép kinh kệ bằng tiếng Phạn hay tiếng Cham (tiếng mẹ đẻ). Đây cũng là thời kỳ chữ viết akhar Thrah đang hình thành, là giai đoạn chuyển biến từ chữ Champa cổ (akhar Hayap) sang chữ Champa truyền thống (akhar Thrah).
2.1.3. Thời kỳ chữ Champa cận đại (từ thế kỷ XVII đến nay): Giai đoạn này người Cham sử dụng chữ viết Akhar Thrah (tức là chữ Champa truyền thống hay chữ Champa phổ thông). Chữ viết akhar Thrah xuất hiện trên bia ký Po Rome (1627-1651) vào thế kỷ thứ XVII (Lafont, 2011). Đây là loại chữ viết được kế thừa từ chữ viết Champa Cổ đại và chuyển biến trong giai đoạn thời kỳ Trung đại.
Akhar Thrah là chữ viết Champa được sử dụng chính thức trên các văn bản hành chính quốc gia Champa từ năm 1702, trong các tác phẩm văn chương như: Akayet Inra Patra, Akayet Um Marup,… và chữ viết này được sử dụng rộng rãi đến ngày nay.
2.2. Một số chữ viết Champa
2.2.1. Akhar Hayap (chữ viết Champa trên bia đá)
Theo các nhà nghiên cứu Tây Phương chuyên về văn bản Champa cổ, chữ viết Champa cổ là loại chữ viết xuất hiện trên các bia đá Champa kể từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ XV. Chữ viết này được dùng để khắc trên các bia đá, tảng đá, trên các vách núi, .. nên người Cham thường gọi là akhar Hayap (akhar Tapaoh).
Định nghĩa
• Hayap trong tiếng Chăm có nhiều nghĩa: a). mặt bằng phẳng – batuw hayap “tảng đá bằng phẳn; b). tượng, bia đá – Hayap Bia Ut “tượng Bia Ut”; Hayap Po Kaong Garai “bia Po Klaong Garai”; c). tạc, đục, khắc – hayap di ngaok batuw “khắc trên mặt đá”.
• Tapaoh (< paoh): tạc, đục, đẻo.
Từ định nghĩa trên, akhar Hayap có nghĩa là chữ viết được khắc trên đá, bia đá, tảng đá, vách núi,…còn Tapaoh chỉ là kỷ thuật mang tính chất tạc, khắc, đục đẻo,…
Do đó, khi đề cập đến chữ Champa cổ, thì người Cham ám chỉ đến chữ viết Champa xuất hiện trên các bia đá ở Champa kể từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ XV (G. Coedes, 1939; Filliozat Jean, 1969) chữ viết này thường gọi là akhar Hayap.
Akhar Hayap (Chữ Champa cổ) là một loại chữ viết có nguồn gốc từ chữ cái Devanagari (Ấn Độ), chữ viết này xuất hiện khá sớm trên bia đá Võ Cạnh ở Champa vào thế kỷ thứ 2 (Coedes, 1940; Filliozat, 1969). Trong thời kỳ đầu Chữ Champa cổ chủ yếu dùng để tạc, khắc kinh kệ Phạn ngữ (tiếng Phạn), do đó số lượng ký tự chữ Champa cổ hoàn toàn phụ hợp để khắc Phạn ngữ, xem akhar Hayap trên bia Võ Cạnh ở Hình 1.
Hình 1. Chữ Champa cổ (Akhar Hayap) được tìm thấy trên bia đá Võ Cạnh (nay xã Vĩnh Trung, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) vào thế kỷ thứ 2 (G. Coedes, 1939; Filliozat Jean, 1969). Dùng ghi hoàn toàn tiếng Sanskrit (tiếng Phạn).
Nội dung trên bia Võ Cạnh (Filliozat, 1969)
6. - - - - - - - - - -/ - - - prajāṇn̄ṅ karuṇ xxx
7. - - - - - - - - - - / xx sth(i)to x prathama vijayāya (vādau cai) - -
8. - - - ve śukladivasa (sya) / x (pau)rṇṇam(ā)syām ajñāpitaṃ sadasi
[rāja(va)re(ṇa)
9. - - - ta(ddh)ottrair nnu rājaśatav [ā] / gamṛtam pibantu śrīmārarãja-
[kulava(ṅśa) x
10. - - [bhū]ṣaṇena śrīmāra (pautra) / (ta)nayākulanandanena ajñā -
[ pitaṃ svajanasaṃ(ja)
11. - - x maddhye vākyaṃ prajāhi / takaraṃ kariṇor vvareṇa lokasyāsya
[ gatāgatiṃ vi
12. - tā siṅhāsanāddhyāsinā / ḥ putre bhrātari tantuk [e] svasamīkara-
[ṇachandenāṃ
13. - x ptṛṣu yat kiñc[i]d rajataṃ su/varṇṇam ap(i) vā sasthāvarañ
[jangamam koṣṭhāgārakax
14. - taṃ priyahite sarvvaṃ visṛ/ṣ[ṭa]ṃ mayā tad etam mayānujñātaṃ
[ bhaviṣyair api rā(ja)
15. - x r anumantavyaṃ xxx / x viditam astu ca me bhṛttyasya vīrasya
Đến thế kỷ thứ 4, Champa bắt đầu sử dụng chữ Champa cổ để ghi tiếng Cham cổ (tiếng mẹ đẻ). Tiếng Cham cổ xuất hiện trên bia ký Đông Yên Châu vào thế kỷ thứ 4 (Coedes, 1939; Al-Ahmadi, 1988). Từ giai đoạn này trở đi trên bia ký Champa thường khắc song ngữ phần đầu là tiếng Phạn và phần cuối là tiếng Cham. Xem nội dung bia đá Đồng Yên Châu ở Hình 2.
Hình 2. Chữ Champa cổ (Akhar Hayap ), ghi tiếng Chamic(tiếng mẹ đẻ)/ Malayic và tiếng Sanskrit (tiếng Phạn) trên bia ký Đông Yên Châu năm c.350 A.D (thế kỷ 4).
Nội dung trên bia Đồng Yên Châu, dịch bởi Thurgood 1999, p. 3
Siddham! Ni yang nāga punya putauv.
Ya urāng sepuy di ko, kurun ko jemā labuh nari svarggah.
Ya urāng paribhū di ko, kurun saribu thun davam di naraka, dengan tijuh kulo ko.
Putra Podam (2015)
Siddham! Ni yang nagar hu patao.
Hec thei urang pok noja kau, kurun kau kaya banrik mang suraga
Hec urang yang paribai di kau, kurun saribu thun dalam di naraka, saong tijuh tal tanah raya.
Giai đoạn từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 9 là thời kỳ vàng son của Champa, do đó, nội dung trên bia đá gồm tiếng Phạn và tiếng Cham cổ có quy luật chính tả, cấu trúc hành văn luôn luôn chính xác. Xem nét dạng của khar Hayap viết vào thế kỷ thứ IX.
Hình 3. Nét akhar Hayap viết vào thế kỷ thứ IX.
Nội dung akhar Hayap trên Hình 3. (Dharma, 2006)
“Om namas sivâya” Sakarâja 788 kâla yâng Po Ku Srî Paramesvaravarmmadeva punah guhâ nay.
“Nhân danh Đấng Siva” vào năm saka 788 (= 866 dương lịch), dưới triều đại Po Ku Sri Paramesvaravarmmadeva, xây dựng cung điện này.
Để thuận lợi vừa viết được tiếng Phạn vừa viết tiếng Cham, chữ Champa cổ cần bổ sung thêm ba ký tự mới đó là: Nja, Nda và Mba.
Trong bảng chữ cái Champa cổ có hai hệ thống phụ âm: ṭa, ṭha, ḍa, ḍha, ṇa và ta, tha, da, dha, na; ba phụ âm “sa”: śa, ṣa, sa; nhưng chỉ có một phụ âm “pa”. (EFEO,1977). Xem bảng chữ Champa cổ và cách phiên tự và phiên âm của EFEO ở Hình 4.
Hình 4. Chữ Champa cổ và cách phiên tự và phiên âm Rumi Champa 2002 (Putra Podam).
Đặc biệt trong hệ thống chữ viết Champa cổ thiếu ký tự phụ âm “pha”, vì các bia đá ở Champa bị hư hại nhiều nên các nhà nghiên cứu chưa tìm ra ký tự này. Nhưng một điều chắc chắn rằng người Cham có ký tự phụ âm “pha”, vì đây là từ thường dùng phổ biến ở người Cham và cũng là từ xuất hiện nhiều trong chữ viết Sanskrit. Vì lý do này nên akhar Thrah đã bổ sung ký tự phụ âm “pha” vào danh sách bảng chữ cái.
Hình 5. Chữ Champa cổ (Akhar Hayap ), ghi tiếng Cham (tiếng mẹ đẻ) trên bia ký Đông Yên Châu năm c.350 A.D (thế kỷ 4) và chữ viết Malay năm May 1, 683 (thế kỷ 7).
Hình 6. Chữ Champa cổ (Akhar Hayap ), ghi tiếng Cham (tiếng mẹ đẻ) trên bia ký Đông Yên Châu năm c.350 A.D (thế kỷ 4) và chữ các viết ở Đông Nam Á.
Hình 7. Chữ Champa cổ (Akhar Hayap ), được tìm thấy trên Bia đá Po Ina Nagar (Aia Trang-Champa) vào thế kỷ 8.
2.2.2. Akhar Thrah (Srah, Sarah)
Akhar Thrah hay chữ viết Champa truyền thống hình thành từ thế kỷ 16. Chữ viết này đã được khắc trên bia ký Po Rome (1627-1651) thế kỷ 17 (Dharma, 2006; Lafont, 2011). Trong thời kỳ phát triển, akhar Thrah có một qui luật rất ổn định về ngữ pháp, chính tả và cấu trúc hành văn.
Akhar Thrah được sử dụng chính thức từ năm 1702 trong các văn bản hành chánh quốc gia Champa, trong các tác phẩm văn học, lịch sử, ngôn ngữ, các kinh sách tôn giáo Cham Ahiér, Cham Awal, và các tài liệu được lưu hành trong cộng đồng Cham cho đến ngày nay.
Hệ thống chữ viết akhar Thrah Champa gồm có 82 ký tự (Rumi Champa 2000, Putra Podam). Trong đó gồm 6 nguyên âm, 35 phụ âm, 14 phụ âm cuối, 12 bán nguyên, 5 nhị trùng âm, và 10 ký số.
Trong hệ thống này có hai phụ âm “sa” là sa praong (s) và sa asit (s). Hai phụ âm “pa” gồm pa praong (p) và pa asit (p). Bốn phụ âm có takai ndak là: nga + takai ndak ( ), nya + takai ndak ( ), na + takai ndak ( ), và ma + takai ndak.
Đặc biệt có ký tự takai kâk. Trong tài liệu hoàng gia Champa, takai kâk chỉ áp dụng giới hạn cho một số từ như jiâ (jYI ) thuế, drâng ( Rd)I) “trở thành, lên ngôi”. Takai kâk không dùng cho một số từ thông thường như anak (con), ama (cha), ina (mẹ),… (Dharma, 2011).
Theo hệ thống Phạn ngữ, akhar Thrah Champa được chia thành sáu (6) nhóm chính như sau:
1). Nguyên âm (Vowels)
Nhóm nguyên âm trong chữ viết akhar Thrah gồm 6 ký tự như Bảng 1dưới đây.
Bảng 1. Nguyên âm akhar Thrah Cham
2. Phụ âm (Consonants)
Nhóm phụ âm akhar Thrah Champa gồm 35 ký tự, mỗi phụ âm đều mang âm /a/ và được liệt kê theo trình tự như Bảng 2 dưới đây:
Bảng 2. Phụ âm akhar Thrah Champa
3). Phụ âm cuối (Final Consonants)
Phụ âm cuối (akhar matai), là phụ âm ở vị trí cuối cùng của một từ. Phụ âm cuối trong akhar Thrah gồm 14 ký tự đều không mang âm /a/ và có nét cuối kéo dài thêm.
Bảng 3. Phụ âm cuối (akhar matai)
4). Bán nguyên âm (Semi-vowels)
Bán nguyên âm (Semi-vowels) là ký tự bán độc lập, thường kết hợp với phụ âm để tạo thành một từ. Akhar Thrah Champa có 12 bán nguyên âm như trình bày trong Bảng 4.
Bảng 4. Nhóm bán nguyên âm
5. Nhị trùng âm (Diphthongs)
Nhị trùng âm là sự kết hợp giữa hai ký tự hay ba ký tự tạo thành một âm vị. Trong hệ thống chữ viết Champa gồm 5 nhị trùng âm được trình bày như Bảng 5 dưới đây.
Bảng 5. Nhóm nhị trùng âm